ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA NGƯỜI KHMER NAM BỘ


ĐỜI SỐNG VĂN HÓA VÀ XU HƯỚNG
PHÁT TRIỂN VĂN HÓA CỦA
NGƯỜI KHMER NAM BỘ

 
                                     
Người Khmer ở Việt Nam hiện nay có khoảng một triệu người, nhưng phần lớn tập trung ở Nam bộ, nhiều nhất là ở các tỉnh Trà Vinh, Kiên Giang, Sóc Trăng và Bạc Liêu; đây là một tộc người có dân số cao nhất trong nhóm Môn Khmer thuộc ngữ hệ Nam Á. Người Khmer vốn có một đời sống tinh thần phong phú, với sức lao động cần cù và một truyền thống văn hóa tốt đẹp, từ nhiều thế kỷ trước đã cùng với người Kinh người Hoa thắt chặc tình đoàn kết trong việc khai mở đất đai xây dựng làng xã ở phía Nam và đã tích cực góp phần xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.

Văn hóa của mỗi dân tộc đều có những đặc trưng nhất định và có những phong cách riêng để thể hiện đời sống xã hội, phong tục tập quán, tôn giáo tín ngưỡng, văn học nghệ thuật... những yếu tố đó đều là những sản phẩm trí tuệ rất quí báu của tập thể con người đã sáng tạo và bổ sung qua nhiều thời kỳ lịch sử khác nhau; Ở nước ta hiện nay có tất cả 54 dân tộc với 54 loại hình văn hóa đặc thù, nhưng tất cả đã cùng hòa quyện với nhau để kết tinh thành một nền văn hóa chung, đó là nền văn hóa của đại gia đình dân tộc Việt Nam. Người Khmer Nam bộ trong thời gian qua đã thực sự có những thành tích nổi bật trong việc phát triển văn hóa phục vụ con người và xã hội, đồng thời cũng đã có những dấu hiệu tốt trong xu hướng phát triển văn hóa phù hợp với các điều kiện về kinh tế thị trường, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.

1/- ĐỜI SỐNG - XÃ HỘI :

1.1. Nơi ở :
 
Người Khmer ở Nam bộ đa số đều cư trú trên các vùng đất cao gọi là đây phnô, cũng có nơi họ sống ở ven sông, rạch hoặc ở dọc theo bờ biển. Họ sống tập trung thành từng cụm gọi là phum tương đương với xóm của người Kinh - ngày trước mỗi phum có chừng từ năm đến sáu chục nóc gia. Cụm dân cư đông hơn phum gọi là sróc người Kinh thường gọi là sóc - độ khoảng bằng một xã của người Kinh. Thật ra phum sóc cũng không phải là những  đơn vị hành chính ở hạ tầng cơ sở, mà ngay từ thời Nguyễn nó đã là những cụm dân cư sống đan xen với người Kinh và người Hoa, phum và sóc đã được hợp thức hóa vào những tổ chức cộng cư của người Việt. Có một số trường hợp ở Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu trong một ấp có nhiều phum của người Khmer hoặc một xã có nhiều sóc, sóc của người Khmer cũng giống như làng Minh Hương của người Hoa không phải là một đơn vị hành chính riêng, mà chỉ là một bộ phận tích hợp trong tổ chức hành chính làng xã của người Việt.

Nhà ở của người Khmer ngày nay về hình dáng, vật liệu kiến trúc cũng gần giống nhà của người Kinh và người Hoa, nhưng ngày trước thì nhà của người Khmer có nhiều điểm khác biệt. Những gia đình Khmer sống trên đất giồng thì nhà thường cất trên mặt đất, còn những người sống ở nơi đất thấp họ phải cất nhà sàn, nhà thường nhỏ nhưng nóc cao, mái rất dốc và thường được lợp bằng lá dừa nước, ở các vùng gần biên giới người ta dùng lá dừa nước chằm lại từng miếng trước khi lợp gọi là lá chằm đóp, các vùng khác ở Tây Nam bộ thì dùng nguyên tàu lá chỉ xé dọc làm hai, khi lợp sẽ xếp chồng lên nhau gọi là một đôi, một số nơi còn dùng cây lồ ô xẻ dọc lợp âm dương rất khéo. Về khung sườn nhà của những người Khmer ở miền Đông thường dùng các loại gỗ quí như dầu, chò, thau lau phối hợp với các loại tre, nứa, lồ ô, le, bương... còn đa số những người ở miền Tây thì sử dụng các loại tràm, đước, cóc, dà, lục bình (cây mai), tre gai. Họ dừng vách bằng lá dừa nước, thông thường thì lá bên ngoài sóng bên trong, cũng có một cách dừng vách đâu sóng, theo cách này thì cả vách trong vách ngoài đều thấy toàn sóng còn lá được ém kín ở giữa trông rất đẹp. Nhà lớn thường có hai cái, cái trên cái dưới, mỗi cái ba gian, nhà nhỏ thường một căn một chái cũng gần giống như nhà người Kinh, loại chái bát vần của người Khmer được làm với kỹ thuật khá cao. Khi cất nhà, người Khmer có một tập quán rất tốt đẹp là họ luân phiên phụ giúp với nhau gọi là vần công cất nhà. 

Người Khmer tuy cũng có giàu nghèo cao thấp khác nhau, nhưng cách bày trí xếp đặt bên trong nhà của họ đa số đều gần giống nhau; thường thì nhà trước là nhà khách có một bộ bàn ghế dài (tâu tăng) hoặc một bộ ván ngựa (kđa) lớn để ở giữa, hai bên là hai bộ ván ngựa nhỏ hoặc là hai chiếc chỏng tre để đàn ông con trai trong nhà nghỉ ngơi , nếu khi có khách thì nhường cho khách nghỉ , phía sau thường có một hoặc hai chiếc tủ (tu) , bên trong đặt những chiếc gối thêu (khnơi) rất đẹp để biểu lộ sự khéo tay của phụ nữ trong nhà . Nhà nào cũng có bàn thờ Phật ở gian chính , đôi khi cũng được đặt trên đầu tủ một cách đơn giản nhưng rất trang trọng . Người Khmer ngày xưa không có phong tục thờ tổ tiên trong nhà nhưng do dung nạp tín ngưỡng của người Kinh người Hoa nên có một số gia đình người Khmer ngày nay cũng có thờ tổ tiên, họ thờ riêng hoặc thờ chung trên bàn thờ Phật, thường thì ảnh người quá cố được đặt dưới ảnh Phật.

Phía sau phòng khách, nếu nhà khá giả thì ngăn phòng cho vợ chồng chủ nhà (bân tak kần lạng mây ôn), phòng con cái, nhất là con gái luôn có phòng riêng (bân tak thơ nông kùm mụn), nếu nhà nghèo cũng che một góc cho con gái. Người Khmer thường nằm quay đầu về hướng Nam, cho đó là hướng ngọc (tabôn) và ít khi nào hướng chân người này đạp lên đầu người kia vì họ luôn tin rằng trên đầu của mỗi người đều có thần thánh ngự trị.
Sau cùng là nhà dưới, bếp và bồ lúa được đặt ở đây, nếu gia đình không có nhà dưới thì bếp được đặt ở chái nhà. Nhà tắm thì luôn được đặt ngoài hè hoặc phía sân sau. 

1.2. Trang phục :

Mặc dù ngày nay có một số người Khmer ăn mặc không khác chi người Kinh và người Hoa, nhưng đa số những người đàn ông lớn tuổi thường mặc đồ bà ba đen hoặc trắng, khi lao động họ thường mặc quần cụt, phụ nữ lớn tuổi cũng mặc đồ bà ba, có một số mặc áo dài tâm pông, ta thường gọi là tầm vông, hoặc áo dài cổ bà lai, đây là loại áo dài của người Khmer, vạt áo dài, tay dài, cổ tròn, may bít bùng không xẻ nách và thường được may bằng vải đen. Đặc biệt là đàn ông đàn bà đều quấn chiếc khăn rằn trên đầu hoặc vắt  trên vai.
 
Trang phục truyền thống hiện nay chỉ được sử dụng trong các lễ cưới, lễ hội, sân khấu... đó là những chiếc săm pốt thật xinh xắn và những chiếc áo bó sát người màu sắc thật lộng lẩy. Săm pốt nguyên là một tấm vải rộng được quấn ngang người từ hông trở xuống, kéo mối vải thật khéo từ phía trước luồn giữa hai chân vòng ra phía sau xem hình dáng như một chiếc quần phồng to và ngắn ngang đầu gối; đây là loại trang phục có nguồn gốc Ấn Độ xưa. Phụ nữ Khmer rất khéo tay trong việc thiết kế trang  phục, trong nhiều thế kỷ qua họ đã dệt được những chiếc xà rông thật tinh xảo với những hoa văn họa tiết thật duyên dáng đầy tính thẩm mỹ,  mỗi chiếc xà rông đều có đường viền rất khéo léo và đẹp đẻ, nhất là kỹ thuật dệt của họ đã đạt đến trình độ khá cao - một chiếc xà rông sau khi dệt xong đều mang hình ống nhưng người ta sẽ không tìm ra  được một đường nối vải nào, y như một chiếc khăn tròn trịa liền trơn không đầu mối.
 
Các loại trang phục truyền thống của người Khmer nói chung vừa kín đáo vừa trang trọng lại vừa xinh đẹp đã biểu lộ được sắc thái đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc.
 
Ngày nay trong một số lễ cưới chú rễ cũng mặc xà rông, áo màu đỏ, cổ đứng vai trái vắt chiếc khăn dài, lưng đeo dao cưới (kầm pách) theo tín ngưỡng dân gian để bảo vệ cô dâu. Còn cô dâu mặc săm pốt, áo đỏ hoặc tím, đầu đội mủ cưới hình chóp, cổ cũng quàng khăn dài trông thật duyên dáng.
 
1.3. Ăn uống :
 
Người Khmer có một món ăn rất nỗi tiếng đó là mắm prahoc (người Kinh thường gọi trại là bò hóc). Mắm này được làm bằng nhiều loại cá, cách làm rất công phu và tốn thời gian rất lâu (khoảng hơn 4 tháng). Mắm prahoc có thể làm bằng các loại cá nhỏ như cá sặc, cá chốt, cá mè, cá lòng tong.... hoặc những lọai cá lớn đắt tiền như cá trê, cá lóc... tùy theo hoàn cảnh và điều kiện của mỗi gia đình, người giàu có thường làm mắm prahoc ốp bằng cá trê rất thơm ngon.. từ mắm prahoc người chế được rất nhiều thức ăn, có thể đem kho, chưng để ăn với các loại rau mác, rau dừa, hẹ nước, cải trời, cỏ the, hoặc mắm sống ăn chung với  sả ớt và đậu đủa thì thật là tuyệt diệu. Ngoài ra người Khmer còn dùng mắm prahoc nêm nếm các loại canh hàng ngày để tăng thêm hương vị, nhất là món canh cải bẹ xanh nấu với cá lóc chiên nêm mắm prahoc, các món ăn tuy đơn giản những hương vị thật đặc biệt đậm đà.
 
Ngoài loại mắm prahoc,  còn có các loại mắm pro ot (bò ót), ơng pa, pơ ling làm bằng tép mồng, tép bạc và một loại mắm chua rất ngon có tên là pha ơk, ta thường gọi là mắm chao, món này làm bằng tôm tép gì cũng được, nhưng ngon nhất là làm bằng tép bạc. Muốn làm món này người ta chọn mùa tôm tép nhiều, dùng tôm tép trộn muối và cho vào nhiều thính (gạo rang) xong đem phơi nắng khoảng 7 - 10 ngày. Khi ăn người ta trộn với đu đủ xanh thái nhỏ, củ gừng, củ riềng, ớt, trái chuối chát  xắt  mỏng. Đây là món ăn rất ngon không những của người Khmer mà người Kinh cũng rất thích.
 
Người Khmer còn có một loại canh gọi là Sòm lo ko kô. Người Kinh thường gọi là canh sim lo, cách nấu cũng rất công phu, phải dùng thịt, cá tươi nấu với rau ngỗ, chuối rém, hoặc trái đu đủ non và được nêm bằng mắm prahoc, đây là món canh rất phổ thông và được dùng ở nhiều nơi.
 
Một món ăn nỗi tiếng khác đó là món sòm lo mun mờ chot, ta thường gọi là bún nước lèo, món này cả người Kinh và người Khmer đầu thích; nhưng cách nấu của người Khmer công phu và có nhiều hương vị đặc biệt hơn. Người ta dùng tôm cá nấu nhừ lấy nước cốt, đem cá ra rút hết xương, nước cốt của cá được nêm muối, ớt, sả... và hai món mêm khác không thể thiếu là ngãi bún giã nhỏ với mắm prahoc, món nước cốt sau khi nêm nếm và nấy kỹ đã trở thành nước lèo dùng ăn với bún bột gạo thì thật là tuyệt. Với món nước lèo này không ăn với bún người ta có thể nấu với bầu thành thành một loại canh gọi là sòm lo kha lốt, nấu với bí đao gọi là sòm lo tà lách, nấu với rau đắng gọi là sòm lo mách lây... Ngoài ra còn có món canh chua vừa chua vừa cay vừa béo gọi là sòm lo mò chu được nấu với cơm mẻ rất đặc sắc hoặc thêm cả trái chuối xiêm còn xanh và một ít mắm prahoc gọi là sòm lo mò chu pha le chất thì lại càng ngon hơn.
 
Các món ăn của người Khmer tuy không cầu kỳ như món ăn của người Hoa, nhưng hương vị rất đặc biệt và rất gần gũi với mọi người; một số món ăn đã được Việt hóa ở Nam bộ, người Kinh từ nhiều năm qua cũng đã có mắm chua cá linh, mắm ruột trộn đu đủ, tép chau, canh chua, bún nước lèo... nhưng mỗi món ăn đều được cải tiến cho thích hợp với khẩu vị của con người từng địa phương.
 
2/- TÔN GIÁO VÀ TÍN NGƯỠNG :
 
Người Khmer đã đón nhận đạo Bà La Môn từ lâu đời, những có lẽ do những giáo điều gò bó và cách phân chia đẳng cấp quá khắt khe của Bà La Môn không phù hợp với tính phóng khoáng, bình dị và dễ dãi của người Khmer nên dần dần vị trí của tôn giáo này đã bị Phật giáo nam tông (còn gọi là Phật giáo tiểu thừa hay Phật giáo nguyên thủy) thay thế.
 
Giáo lý nhà Phật đã hòa nhập vào cuộc sống của người Khmer, lâu dần đã trở thành đạo lý của con người, trở thành một thứ ý thức gắn liền vào cuộc đời của họ. Chùa là mái nhà chung của mọi gia đình, thanh niên trước tuổi trưởng thành đều phải đi tu để trở thành người đạo đức - để có đủ điều kiện tham gia xã hội, xây dựng gia đình, người Khmer không coi việc tu hành là bổn phận hay nhiệm vụ bắt buộc mà là mà là một điều vinh dự, vinh dự được vào ngôi nhà của Phật để nhận những hạt giống lành và những phúc duyên thật tốt để sau đó trở lại thế tục với một con người đầy đủ các điều kiện về nhân cách, phẩm chất, khả năng..., người nào không muốn ra đời thì tiếp tục tu niệm để tìm giải thoát. Trong xã hội của người Khmer trước đây, mọi thanh niên đều phải có thời gian tu ở chùa, vì chùa không những là nơi trau dồi đạo đức mà còn là mái trường đào tạo văn hóa và nghề nghiệp, người nào không xuất gia thì bị mọi người khinh rẻ, khó hòa nhập vào cộng đồng, cả việc cưới hỏi cũng bị trở ngại, người con gái Khmer luôn xem đó là những người chưa đủ phước, chưa đủ điều kiện để tiến đến hôn nhân.
 
Việc xuất tu cũng là điều dễ dàng, bất cứ người thanh niên nào sau một thời gian xuất gia ở chùa đều có thể hoàn tục để lập gia đình, người này sẽ được họ hàng thân tộc và bà con trong phum sóc mừng rỡ đón về gia đình như đón tiếp những đứa con “thi đậu” trở về.
 
Đối với người Khmer, Phật là chổ dựa tinh thần vững chắc nhất - là đấng thiêng liêng nhất, sư sãi đều là những người đắp y mang bát, thừa kế đức Phật để hoằng hóa độ sinh, vì vậy rất được mọi người kính trọng và tôn quí, bất kỳ người Khmer nào được các sư nhận đồ cúng dường đều cảm thấy vui mừng như được ban phúc lớn.
 
Về việc tu hành thì nam phụ lão ấu đều được khuyến khích tu niệm làm lành lánh dữ, nhưng chỉ có những người con trai mới được xuất gia làm sư ở chùa, còn phụ nữ thì không được xuất gia làm ni cô như các phái của Phật giáo bắc tông mà chỉ được các sư dạy bảo tu tâm tại gia. Trừ người xuất gia, số người còn lại không kể nam nữ đều phải đi chùa tụng kinh nghe pháp tại nhà giảng (salatean) ít nhất là 6 lần trong tháng vào các ngày mùng 5, 8, 15, 20,23 và 30 âm lịch. Nội dung những bài giảng chủ yếu là nói về ý nghĩa việc bố thí, làm phước, giúp đỡ mọi người và cúng dường tam bảo.
 
Đa số người Khmer đều có lòng tin về việc bố thí để làm phước, trong những hình thức làm phước thì làm phước lớn nhất là cúng dường thức ăn cho sư sãi và dâng cúng tiền của để xây dựng tu sửa chùa hoặc làm các công việc phúc lợi xã hội của Phật giáo. Bởi có lòng tin làm phước được phước cho nên trong những xóm nghèo vẫn có những ngôi chùa nguy nga lộng lẫy.
 
Tuy nhiên ngoài lòng tin về chùa về Phật, người Khmer còn có những tín ngưỡng dân gian rất đa dạng và phong phú, phổ biến nhất là tín ngưỡng về arăk neakta.
 
Arăk có nghĩa là thần cũng có nghĩa là ma quỷ không có hình dáng rõ rệt, arăk có bổn phận bảo vệ và gìn giữ bình yên cho dòng họ hoặc thân chủ nào đó, có thể xem đây là một loại thần thiện. Ngày xưa hầu hết các gia đình Khmer đều thờ arăk, một số lớn bàn thờ arăk ở đồng bằng sông Cửu Long là những chòi nhỏ ngoài trời được làm theo kiểu nhà sàn được lợp bằng lá dừa nước, bên trong có bệ thờ bày trí một khúc thân chuối hoặc một trái dừa để cặm nhang, một cái dĩa bằng bẹ chuối và một cái tháp được làm bằng cây. Nhưng hiện nay loại chòi nhỏ để thờ arăk còn lại rất hiếm, chỉ thấy lẻ tẻ một số rất ít ở các vùng sâu vùng xa. Tuy nhiên về tín ngưỡng arăk của người Khmer cũng còn rõ nét, họ luôn tin tưởng arăk của dòng họ (arăk chua bua), các arăk này có tên riêng, có lời ca riêng để nhập đồng (lên xác) và nhất là các vật dâng cúng cũng không giống nhau; thí dụ : arăk Cần Tôn Khiu là nữ thần khi dâng cúng phải là thịt ếch, thịt bò; arăk Chùa Teo Tây cũng là nữ thần nhưng khi dâng cúng phải có gà, đầu heo; một số arăk rất khác thường như arăk A Chúk khi mời nhập đồng phải dùng lời ca tục, khi dâng lễ vật phải chưởi rủa và phải dâng bằng chân, phải đổ rượu bằng gáo dừa...
 
Arăk thường là bà tổ của dòng họ, hoặc là một người chết oan hoặc người sau khi chết có những hiện tượng kỳ lạ hoặc là một người nào đó trong dòng họ rất nỗi tiếng. Khi cúng arăk thường phải có một người nữ để nhập đồng (rub arak) - người Kinh ở Nam bộ thường gọi là xác cô, xác cậu, người được chọn thường là một người không được bình thường, ưa nói năng khó hiểu hoặc có các thói quen lạ đời; tuy nhiên trong phum sóc đôi khi cũng có người nhập đồng chuyên nghiệp.
 
Khi gia đình có người đau yếu hoặc có chuyện cần cầu xin, người Khmer thời trước thường tổ chức nhập đồng, thường thì ngoài các lễ vật phù hợp còn phải có 2 hoặc 4 người đánh trống (skor arăk), một người đàn gáo, một người thổi sáo và một người sử dụng chà pei. Khi người lên đồng đặt hai tay lên mâm lễ vật thì nhạc tấu lên và điệu lên đồng (chol arăk) được ca lên, người lên đồng lúc đó uốn éo, có nhiều cử động khác thường như uống nước liên tục, ngậm rượu phun vào người bệnh... và nói những câu đặc biệt để chữa bệnh hoặc nói với chủ nhà phải làm một số điều gì đó thì bệnh nhân mới hết được.
 
Cứ hai hoặc ba năm vào khoảng tháng 3 tháng 4 âm lịch, các dòng họ của người Khmer đều có tổ chức cúng arăk chua bua, thường gọi là cúng tổ (lờn run) để cầu cho các arăk đã phù hộ cho con cháu được mạnh giỏi và bình yên.
 
Song song với tín ngưỡng arăk còn có tín ngưỡng neakta, neakta là một vị nam thần đứng tuổi có trách nhiệm bảo hộ con người và đất đai trong một khu vực, cũng tương tự như loại tín ngưỡng Thành hoàng của ta. Đối với người Khmer neakta có nhiều xuất xứ khác nhau, có thể là linh hồn của một người đã chết từ lâu, một vị thần ở trong rừng thẩm, hoặc một vị thần ở nơi đồng ruộng được chỉ định để coi sóc một địa phương hoặc một khu vực nào đó.
 
Người Khmer ở Nam bộ thường thờ neakta ở các miếu nhỏ làm bằng cây lá, thường được đặt ở ngã ba sông, bìa rừng, mé ruộng hoặc dưới gốc cây trong một khuôn viên nào đó, trên bệ thờ mỗi miếu thường là những viên đá cuội rất bóng láng, người ta tin rằng đó là hóa thân của neaktà. Có một loại miếu to hơn được đặt ở các khuôn viên chùa, miếu này thường được làm bằng gạch ngói để thờ các vị neakta chủ xóm (neakta wâtt, neakta méchas srot), trên bệ thờ có một viên đá to (thmor thom) và nhiều viên đá nhỏ (thmor touch); các viên đá này có viên tròn, cũng có viên hình bầu dục, người Kinh thường gọi nôm na là “ông tà” và gọi các miếu thờ là miểu ông tà.
 
Về tên gọi của neakta cũng rất đa dạng được phân chia ra làm nhiều loại : Loại dùng tên của một vật trong thiên nhiên, hoặc dùng địa danh để đặt tên, có loại mang tên nhân vật trong truyền thuyết, có loại căn cứ vào màu sắc để gọi tên, cũng có loại tên có nguồn gốc từ đạo Bà La Môn như neakta Day Khmau, neakta Kocohom, neakta Buôn Muk, neakta Pottobol, neakta Neang Khmau, neakta Neang Khiu. Riêng các neakta Day Khmau Kocohom được thờ cúng rất nhiều ở các vùng đồng bằng sông Cửu Long được người ta xem như những hóa thân của các thần Vishnou Siva trong các truyền thuyết xa xưa. Các neakta này thường được thờ cúng ở chùa.
 
Tín ngưỡng arăk neakta đã ảnh hưởng rất sâu đậm vào cuộc sống của người Khmer trong nhiều thế kỷ qua, nhất là những đồng bào nghèo ở các phum sóc xa xôi, người ta luôn tìm chổ dựa tinh thần vào tổ tiên của dòng họ, vào những vị thần bảo hộ xóm làng, người ta luôn kêu cứu các vị khuất mặt khuất mày đó để xin được cứu giúp trong những khi bị thiên tai, dịch bệnh, thất mùa, tai nạn... Nhưng dưới sự truyền bá sâu rộng của Phật giáo nam tông, các loại tín ngưỡng dân gian của người Khmer càng ngày càng bị biến đổi hình dạng và cho đến nay trình độ dân trí của người Khmer đã được nâng cao, nên một số lớn tín ngưỡng về arăk và neakta cũng đang dần dần bị mai một.
 
3/- VĂN HỌC DÂN GIAN :
 
Người Khmer Nam bộ thật sự đã có một kho tàng văn học dân gian rất lớn bao gồm nhiều thể loại như truyện cổ tích (rương prêng), thần thoại (rương boran), tục ngữ (sopheaset), bài ca (châm riêng)... các thể loại này được chia làm hai loại lớn, là văn xuôi (peak sâmrai) và văn vần (kâm nap).
 
3.1. Loại văn xuôi (peak sâmrai) :
 
Về văn xuôi cũng có hai thứ : văn viết  và văn nói. Trong văn học dân gian của người Khmer Nam bộ có một loại văn viết rất đặc biệt đó là những bài diễn văn theo một khuôn mẫu có sẵn được đem ra đọc trước đám đông tại chùa hay tại nhà riêng nhân một lễ hội nào đó. Thường thì trong lúc đọc có nhiều người nghe, khi nghe xong họ đều biểu đồng tình với  diễn văn, lúc người đọc chấm dứt đều nói “xong” (hâng) thì mọi người cùng lượt hô to “tốt” (sathu).
 
Nhưng thế mạnh trong văn học dân gian vẫn là văn nói, thể hiện rõ nhất trong văn nói của người Khmer Nam bộ là hai loại truyện kể : Cổ tích và thần thoại. Thực ra các truyện này có guồn gốc từ các sách chép trên lá thốt nốt (sătra) nhưng được lưu hành trong dân gian bằng hình thức truyền khẩu. Về cổ tích thì đa số mang màu sắc Phật giáo, nội dung cốt truyện thường dạy con người làm lành lánh dữ, đa số các truyện cổ tích đều nhằm nhắc nhở làm ác gặp ác, làm thiện gặp thiện, con người hiền lành dù có bị hãm hại hay bị tai bay họa gởi nhưng cuối cùng vẫn bình an, cuối cùng cái thiện luôn thắng cái ác. Các tích truyện thường nói về thân phận con người trong mọi hoàn cảnh khác nhau, đôi khi những nhân vật trong truyện lại là những con vật như : thỏ, cáo, gà, khỉ, cọp, voi ... cho thêm phần hấp dẫn và đa số các truyện cổ tích đều kết thúc bằng các hình thức thưởng thiện phạt ác.
 
Truyện cổ tích Khmer rất phong phú về nội dung và dồi dào về số lượng với nhiều đề tài có ý nghĩa, các nghệ nhân Khmer phân ra làm nhiều  loại : Chuyện xưa tích cũ, ngụ ngôn, truyện kể về thú vật và truyện cười.
 
Truyện ngụ ngôn được phát triển rất lớn vì Phật giáo có lối giảng đạo cho người bình dân bằng cách kể truyện có ẩn dụ để thay cho những bài giáo lý khô khan khó hiểu : Các nhà sư thường dùng những hình tượng cụ thể trong văn học thay thế cho những khái niệm trừu tượng trong triết học để dễ dàng truyền bá giáo lý Phật giáo đến mọi người, lâu dần đã thành những câu truyện kể quen thuộc trong dân gian.
 
Các truyện nói về loài vật  thì mỗi loài được nhân cách hóa và điển hình cho mỗi trường hợp trong cuộc sống khác nhau, riêng hình tượng con thỏ đã được gắn vào nhiều truyện cổ tích xa xưa và người Khmer cũng rất chú ý đến hình tượng con vật này. Một số lớn người Khmer đều nghĩ rằng thỏ là loài vật tinh khôn, đẹp về thân thể, tinh khiết về tinh thần, từng là tiền thân của đức Phật đã có lần hy sinh thân mạng để cứu người khác, người ta đã khai thác triệt để ý nghĩa hy sinh cao cả này trong các truyện kể dân gian. Ngòai ra, khỉ và voi cũng là những hình tượng thường được nhắc đến.
 
Trong các loại hình truyện kể dân gian có một loại cũng rất được mọi người thích thú đó là truyện cười. Không chỉ riệng đối với người Khmer mà cả các dân tộc khác, truyện cười luôn mang lại những cái vui tươi, hóm hỉnh, sảng khoái, cũng vừa là những bài học có ý nghĩa thâm thúy về cuộc đời của con người. Truyện cười đã phản ảnh được những thói hư, tật xấu của của quan lại, vua chúa, những người giàu sang, đạo đức giả, những con người được xem là “phụ mẫu chi dân” nhưng lại nhẫn tâm áp bức đày đọa : “con dân” của mình; nay lại bị những vố thật cay cú, thật khoái trá của những nhân vật chính trong câu truyện, những nhân vật đại biểu cho tầng lớp lao động nghèo. Người Kinh có Trạng Quỳnh đã từng dùng trí khôn của mình làm điên đảo phủ Chúa và đã từng làm cho những người ăn trên ngồi trước này phải nhiều phen thất điên bát đảo, thì ở đây trong truyện cười của người Khmer cũng có nhân vật Thnênh Cheay đã từng có nhiều thành tích làm đảo điên “luật nhà phép nước” lỗi thời và những bọn “cao quan hậu lộc” phải nhiều phen cười ra nước mắt.
 
Truyện thần thoại của người Khmer cũng có khối lượng rất lớn được thể hiện rõ nhất bằng cách truyền khẩu và qua các tác phẩm điêu khắc, hội họa ở chùa, ở các công trình công cộng, cứ mối một hình tượng là có mỗi thần tích với ý nghĩa sâu xa.
 
Phổ thông nhất trong truyện thần thoại Khmer là truyện Đầu thần bốn mặt, trên đỉnh các nóc chùa Khmer đều có đặt tượng đầu của một vị thần có đến bốn mặt nhìn ra bốn bên, biểu tượng này gắn với một lễ nghi quan trọng trong ngày đầu của tết Chuôl Chnam Thmay, đó là lễ rước Maha Sângkran, lễ rước ấy có liên quan đến một câu chuyện thần thoại như sau : Ngày xưa, ở trên trời có một vị chúa tể gọi là Maha Prum, một hôm ông tức giận vi phát hiện dưới trần có một hoàng tử tên Thômabal, một người có trí tuệ phi thường nên đa số dân chúng thường nghe theo.Thần Maha Prum ganh tị liền bay xuống trần gặp mặt hoàng tử ra một câu đối và nói rằng nếu đáp được thì Maha Prum sẽ cắt đầu chịu thua, nếu không đáp được thì hoàng tử phải bị giết chết. Hoàng tử nhận lời và vị chúa tể ra câu đố “Buổi sáng cái duyên con người đặt ở đâu và buổi trưa, buổi tối lại ở đâu ?”. Hoàng tử đi vào rừng tỉnh tâm suy nghĩ, bổng nghe hai con chim nói với nhau “Buổi sáng cái duyên ở mặt  nên người ta phải rửa mặt, buổi trưa cái duyên ở bụng nên  người ta phải tắm và buổi tối cái duyên ở chân nên người ta phải rửa chân  để đi ngủ”. Hoàng tử nghe xong tỉnh ngộ liền tìm vị chúa tể Maha Prum trả lời. Maha Prum bị thua và đã giữ đúng lời hứa tự cắt chiếc đầu có bốn mặt của mình đặt ở đỉnh núi Somêru giao cho bảy nàng công chúa con của thần luân phiên canh giữ.
 
Nội dung truyện thần thoại này đã nêu lên ý nghĩa sự chiến thắng của con người đối với  vị thần có nhiều quyền năng và kiêu ngạo, sự chiến thắng của trí thông minh, của trí tuệ loài người đối với sức mạnh của thiên nhiên và các uy lực huyền bí.
 
Trong các ngôi chùa Khmer, người ta còn thấy biểu tượng Reahu với chiếc đầu to mồm rộng, răng nhe, mắt trợn, hai tay nắm mặt trời đưa vào mồm chực nuốt. Biểu tượng này cũng có nguồn gốc từ một truyện thần thoại rất quen thuộc trong dân gian : Ngày xưa, trong một gia đình nọ có ba anh em trai, do cha mẹ mất sớm nên họ đã ở chung một nhà và rất thương yêu nhau. Một hôm có một đoàn tu sĩ đi khất thực, hai người anh bảo người em út dâng cơm, người em chạy vào nấu cơm, nhưng cơm chưa chín, đoàn tu sĩ đã đi qua rồi, hai anh tức giận chưởi mắng thậm tệ, anh thứ hai còn dùng đủa bếp đánh vào đầu đứa em. Người em nổi giận bỏ nhà ra đi, đến một con sông thấy nước chảy cuồn cuộn mới ước ao cho mình có sức mạnh vạn năng, may mắn thay người em lại được đắc kỳ sở nguyện trở thành người có sức mạnh vô song và sau đó hai người anh do có công quả tu tập, nên anh cả đã biến thành mặt trời và anh hai biến thành mặt trăng.
 
Người em lúc này tự xưng tên là Reahu, ỷ có sức mạnh phi thường nên xem thường mọi người và còn xem thường cả thần thánh. Một hôm nghe làng bên có một vị La Hán đang thuyết pháp, dân chúng nói rằng La Hán là người cao lớn vô cùng nên anh chàng mới đến nơi xem sao, thấy vị La Hán ngồi trong ngôi nhà nhỏ, Reahu bật cười nói rằng “Tôi nghe ông cao lớn lắm, nay mới thấy ông ngồi trong ngôi nhà nhỏ như thế này thì cao lớn thế nào đựơc”. Vị La Hán cười bảo “Nếu ngươi muốn biết ta cao lớn như thế nào thì hãy bước vào đây”. Reahu vừa bước tới cửa, bổng nhiên ngôi nhà trở nên to lớn dị thường và vị La Hán cũng trở nên rất lớn. Reahu ngạc nhiên hỏi “Ông to lớn như thế, nhưng không biết có ai lớn hơn không”. Vị La Hán nói có đức Phật Cù Đàm. Reahu nghe nói nổi tính hiếu kỳ muốn xem ra sao nên mới xin La Hán dẫn đi xem. Vị La Hán thuận tình cho Reahu bám vào tay áo bay về Tây Phương. Phật Cù Đàm thấy vậy nói rằng : “Đã là người tu hành còn để cho con chí con rận bám vào áo làm chi”. Reahu nghe nói bổng dưng xấu hổ bèn buông tay áo rơi trở lại trần gian.
 
Trên đường về Reahu thấy có suối nước trong liền cuối xuống uống, chẳng may bị máy trời chém đứt làm hai khúc, khúc thân rơi xuống đất, khúc đầu bay lên trời, nhưng Reahu không chết bay đến đâu gây thảm họa đến đó, y thường dùng chiếc mồm khổng lồ của mình để thổi ra bão tố và thường hóa thành những luồng trốt mạnh để cuốn người đi, người Khmer giải thích hiện tượng đó là “Ông cụt đi”. Reahu nhớ lại năm xưa hai người anh bạc đãi mình nên phát sinh lòng thù hận mới bay lên đỉnh núi Somêru để chờ mặt trời, mặt trăng đi qua để trả thù. Vì vậy cứ mỗi lần có hiện tượng nhật thực, nguyệt thực thì người Khmer giải thích lúc đó mặt trời và mặt trăng đang bị Reahu nuốt vào bụng, nhiều người  còn tin rằng nếu Reahu nuốt mặt trăng từ Đông sang Tây thì thường xảy ra nạn đói kém, nếu trái lại Reahu nhả mặt trăng từ Tây sang Đông thì năm đó sẽ trúng mùa, một số phụ nữ khi có thai còn cầu xin Reahu phù hộ cho sinh đẻ được mau mắn và dễ dàng.
 
Truyện này phản ánh sự nhận thức của con người thời cổ về các hiện tượng tự nhiên như giông bão, gió trốt, thủy triều lên xuống, nhật thực, nguyệt thực...., tất cả đều do một năng lực huyền bí gây nên. Ngoài ra, còn rất nhiều truyện thần thoại khác, mỗi truyện đều mang một ý nghĩa đặc biệt và phản ảnh một đôi phần về các sinh hoạt và tín ngướng cổ xưa.
 
3.2. Loại văn vần (kâmnap) :
 
Trong văn học dân gian Khmer, loại văn vần cũng không kém phần phong phú hơn loại văn xuôi, có thể nói còn hấp dẫn hơn bởi tính trữ tình  của nó. Gọi chung là thơ ca dân gian nhưng trong đó bao gồm rất nhiều loại của nhiều thời kỳ lịch sử khác nhau, có cả : ca hát (châm riêng), hò (Bâm to bât), tục ngữ ca dao (Sphoeaset), dân ca (Bât chrieng) và các bài thơ ngụ ngôn, trào phúng, châm biếm...
 
Cuộc sống của người Khmer Nam bộ rất gần gũi với thiên nhiên, họ rất thích ca hát để biểu đạt tình cảm, trong mọi sinh hoạt đình đám, hội hè, liên hoan, họp mặt đều có ca hát, ca hát là một món ăn tinh thần rất quen thuộc và quan trọng đối với người Khmer. Thường thì múa và hát ít khi tách rời, điệu múa làm tăng thêm ý nghĩa cho lời ca và lời ca càng làm tăng thêm nghệ thuật cho điệu múa. Các nam nữ vừa múa vừa hát đối đáp với nhau qua các bài ayai. Trong những ngày mùa có những bài ca phục vụ lao động (châm riêng pôtahkam) người nông dân vừa hát vừa làm việc để quên đi nổi mệt nhọc trên đồng ruộng. Cũng có những bài ca trữ tình (châm riêng brâchea brei) các thanh niên nam nữ rất ưa thích và có cả những bài độc tấu, độc diễn, vừa ca vừa sử dụng đàn dây (châm riêng chapei).
 
Người Khmer Nam bộ còn có những điệu hò rất lý thú, đây cũng là một điểm đặc biệt trong các dân tộc ít người ở Việt Nam, có lẽ do người Khmer sống tập trung khá đông đúc ở các vùng sông nước, với nhiều sinh hoạt tập thể ở ruộng đồng và xuất phát từ những nhịp điệu lao động lâu ngày đã tạo thành những điệu hò độc đáo. Trong các sinh hoạt vui chơi ở các lễ hội người Khmer đã sử dụng các điệu hò kéo dây, hò kéo co... để cổ vũ các vận động viên nam nữ; trong các sinh hoạt lao động nơi dòng sông bến nước lại có các điệu hò đua thuyền, hò chèo ghe, hò hái sen... Nội dung của các điệu hò đa số phản ánh những sinh hoạt thực tế của người Khmer ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, nhưng cũng có một số các điệu hò do cuộc sống cộng cư nhiều năm nhiều tháng và trong quá trình giao lưu văn hóa giữa các tôc người  ở Nam bộ nên đã bị ảnh hưởng ít nhiều đến các điệu hò đi cấy, hò giả gạo, hò chèo ghe.... của người Kinh.
 
Riêng về dân ca Khmer cũng có rất nhiều thể loại : Về lao động có hát quăng chài (chriêng bâng sâm nanh), hát chặt gỗ (chriêng kab chhơ), hát bửa củi (chriêng puhôs), hát giã gạo (chtiêng bôk srân), hát cấy lúa (chriêng stungrrâuv), hát nuôi tằm (chriêng chinh chưm neang), hát quay tơ (chriêng rôveays sânt), hát dệt chiếu (chriêng tbânth kânteteet), hát dệt vải (chriêng đâm banh), hát thợ mộc (chriêng cheng chhơ), hát thợ gốm (chriêng smâun chhăng)... Về phong tục lễ hội thì có rất nhiều bài hát. Chỉ riêng lễ cưới đã có đến hàng trăm bài, nào là hát đến nhà gái, hát mở rào, hát buộc chỉ, hát quét chsssiếu, hát cắt hoa cau.... Ngoài ra, trong mỗi sinh hoạt của người Khmer trong một cuộc sống đời thường đều có sự hiện diện của dân ca. nếu được sưu tập đầy đủ thì sẽ làm phong phú và khởi sắc thêm kho tàng dân ca Nam bộ.
 
4/- CÁC LOẠI HÌNH NGHỆ THUẬT :
 
 
Nghệ thuật là món ăn tinh thần rất cần thiết trong cuộc sống của con người, nghệ thuật là tiếng nói riêng là biểu hiện bản sắc văn hóa của từng tộc người trên thế giới, mỗi dân tộc đều có những loại hình nghệ thuật đặc thù đã phản ánh những phong tục tập quán của từng địa phương. Người Khmer là một tộc người vốn có cuộc sống tinh thần rất phong phú, từ đó sản sinh nhiều loại hình nghệ thuật rất độc đáo như nghệ thuật múa, âm nhạc, sân khấu, kiến trúc...; từng loại hình nghệ thuật đã phản ảnh được những góc độ nhất định về tâm tư, tình cảm, phong tục tập quán của người Khmer trong nhiều thế kỷ qua.
 
4.1. Âm nhạc :
 
Âm nhạc của người Khmer Nam bộ rất phong phú, đã được lưu truyền từ đời này sang đời khác nhưng đa số chỉ bằng con đường truyền khẩu, mãi cho đến nay vẫn chưa có một hình thức ghi chép nào về loại hình nghệ thuật này, do vậy mỗi bản nhạc có rất nhiều dị bản, tuy nhiên nhờ sự truyền thừa khéo léo của các nghệ nhân Khmer cho đến hôm nay kho tàng nghệ thuật này vẫn được giữ gìn cẩn thận và phát huy rất tích cực. Mặc dù trong những thập niên gần đây đã có sự du nhập của nhạc phương Tây (tân nhạc), nhưng âm nhạc truyền thống vẫn gữ vững được vị trí làm chủ và vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của người Khmer Nam bộ. Có thể tạm chia âm nhạc truyền thống ra làm hai loại : Nhạc sân khấu và nhạc dân gian.
 
 Nhạc sân khấu : Đây là loại cổ nhạc được người Khmer sử dụng như món ăn tinh thần đã từ lâu đời, các bài bản của nó khá hoàn chỉnh vầ cấu trúc và giai điệu. Các bản phổ thông được mọi người biết nhiều nhất là Sâm poong, Phat cheay, A lê, Chôl chhung, Khan bram, Peak brampir, Peak bramber... thường được các nghệ nhân dùng trong dùng trong các vở diễn ở các sân khấu Rôbam Yukê, ngoài ra còn được sử dụng rộng rãi ở các buổi hòa nhạc, các lễ nghi ở chùa và các đám tiệc ở phum sóc.
 
 Nhạc dân gian : Lọai nầy cũng tương tự như dân ca Nam bộ đã lưu hành rộng rãi trong dân gian Khmer từ những ngày xa xưa và nó cũng đã từng bước phát triển qua nhiều thời kỳ lịch sử để phục vụ các cuộc vui chơi, các hình thức sinh hoạt tập thể, các thời điểm lao động sản xuất, chiến đấu... của người Khmer.
 
Ở Nam bộ hiện nay, nhạc dân gian Khmer có đến hàng trăm thể điệu với nhiều hình thức ca, ngâm, tụng, đọc được thực hiện do các nam nữ thanh niên và một số người lớn tuổi hâm mộ. Phổ biến nhất là giai điệu Ayai, là điệu hát đối đáp trữ tình thật độc đáo của nam nữ trong những khi scày cấy, tát nước đắp bờ, nhổ mạ, chèo ghe... hoặc những khi giải lao sau giờ lao động hay trong các đám tiệc, liên quan. Thực hiện hát Ayai gồm một nam một nữ hát đối đáp để trao đổi tình ý với nhau, cũng có khi châm biếm hay thách đố lẫn nhau, nội dung thường là các vấn đề trong tình yêu, trong cuộc sống. Đây là điệu đã hát thực sự tạo được sự hấp dẫn cho mọi người, nên hiện nay đã biến hóa đến 13 làn điệu khác nhau.
 
Nhạc cụ của người Khmer cũng rất đa dạng và có nhiều đặc điểm, tiêu biểu nhất là dàn nhạc gõ (Phlêng pinpeat), một dàn nhạc có âm lượng rất lớn, theo truyền thống chỉ được sử dụng trong những lễ nghi quan trọng của Phật giáo như : Lễ Phật đản, kết giới, khánh thành, nhập hạ, cầu siêu... nhưng từ vài chục năm nay, do nhu cầu của xã hội dàn nhạc gõ cũng được sử dụng cho các đám tang, đám cưới và các lễ hội dân gian. Theo nhận xét của người Kinh thì dàn nhạc có 5 bộ, gồm : Bộ hơi, bộ da, bộ đồng, bộ sắt, bộ mộc nên thường gọi là dàn nhạc ngũ âm, nhưng người Khmer vẫn gọi là dàn nhạc gõ vì đa số các loại nhạc cụ đều phải gõđể phát âm. Dàn nhạc gõ đủ bộ gồm có 7 nhạc cụ : 1/- Nhạc cụ chủ lực là đàn Pôneatêk có âm bổng, gồm 21 thanh tre rời tập họp thành một dãy nằm song song với nhau trên một thùng đàn làm bằng gỗ hình cong như chiếc thuyền được kê trên bốn chân. 2/- Đàn Rôneat thung có âm trầm, gồm 16 thanh gỗ rời, các thanh cũng được tập hợp thành một dây như đàn Rôneat và cũng được đặt trên chiếc thùng gỗ hình thuyền có chân nhưng đáy bằng không cong như thùng đàn Rôneat. 3/- Đàn Rôneat đet, có 21 thanh sắt pha đồng, các thanh được sắp thành ba bát độ để trên khung của mặt thùng nhưng không xâu lại thành một dây như đàn Rôneat, thùng đàn hình chữ nhật đáy bằng. 4/- Pet kông thôm (cồng lớn) và pet kông thauch (cồng nhỏ), cồng lớn gồm 16 chiếc có âm trầm, cồng nhỏ gồm 17 chiếc có âm bổng, cả hai loại đều được chế bằng đồng pha gang, các chiếc cồng được xâu lại mắc trên một chiếc dàn bằng mây uốn cong hình bán nguyệt. 5/- Skôs thôm (trống lớn) và Sâm phôr (trống nhỏ), trống lớn gồm hai chiếc cột chặc với nhau thành một đôi, một chiếc có âm bổng và một chiếc có âm trầm, trống lớn được đánh bằng dùi gỗ, còn trống nhỏ chỉ có một chiếc nhưng có đến hai mặt và được đánh bằng tay; mặt trống làm bằng da trâu hoặc da bò và được bịt rất khéo. 6/- Sralay pinpet, là hai loại kèn bằng gỗ, có 6 lỗ, lưỡi kèn làm tre hoặc lá thốt nốt. 7/- Chhưng, là một cặp chập chã làm bằng đồng thau.
 
Khi hòa tấu, nếu đủ cả 7 nhạc cụ thì gọi là dàn nhạc lớn (vông thôm), nhưng chỉ thiếu một phần của một nhạc cụ cũng bị xem là dàn nhạc nhỏ (vông tauch). Đàn Rôneatek là nhạc cụ chủ đạo vì vậy luôn được gõ mở đầu báo hiệu hòa âm, các nhạc cụ khác liên tiếp theo cùng hòa nhịp để tấu thành khúc nhạc.
 
Theo tín ngưỡng của người Khmer, trước khi hòa tấu bằng dàn nhạc gõ phải làm lễ cúng chư tổ (kru đôm) để nhớ ơn các vị tiền bối đã sáng tạo ra nhạc cụ và nhạc bản. Lễ vật cúng tế gồm các loại như sau : Một cây bông (sla tho) làm bằng thân cây chuối hoặc bẹ dừa nước thành hình khối 7 tầng, 7 cái bánh ít (nùm tiên), một chai nước cúng (tưk peak) được phong kín bằng giấy đỏ, một chai rượu cúng (sra peak) cũng được dán gấy đỏ, một nải chuối, hai mét vải trắng, một đầu heo luộc, nữa thúng gạo và vài cây đèn cầy. Khi cúng người ta luôn mở đầu bằng một bản nhạc cúng tổ và sau đó mới vào chương trình hòa tấu. Mỗi khi diễn tấu dàn nhạc gõ thường được đặt ở vị trí cố định, nhưng nếu phục vụ trong các cuộc diễu hành, người ta phải thiết kế một cái dàn bằng cây để đặt nhạc cụ trên đấy do nhiều người khiêng, mỗi nhạc công được xếp đặt theo từng vị trí đã qui định để sử dụng nhạc cụ. Đa số các trường hợp diễn tấu, dàn nhạc gõ thường được sử dụng đủ bộ, cũng có một vài trường hợp dàn nhạc được tách ra một vài nhạc cụ để bổ sung âm lượng cho một dàn nhạc nhẹ khác.
 
Người Khmer còn có dàn nhạc nhẹ (phlêng khsê) gồm các loại đàn dây, chủ yếu là đàn cò (Trôsô) và các loại đàn gáo (Trôrô lea), đàn cò u (Trô ủ), đàn bán nguyệt (Khưm), cặp phách tre (Krab), trống cổ bồng (Skôr phiêng) sáo trúc (Khloy). Hiện nay có một số nơi bổ sung vào nhạc cụ tân nhạc như đàn Guitare, đàn Accordéon, trống Jazz. Dàn nhạc nhẹ, bởi có đặc điểm là “nhẹ” rất dễ mang đến mang đi rất dễ bố trí nên hiện nay đã được sử dụng rất phổ thông trong các cuộc liên hoan, đám tang, đám cưới, lễ cầu phước và trong một số lễ quan trọng ở chùa; các đoàn văn nghệ chuyên nghiệp hoặc nghiệp dư đều được trang bị dàn nhạc này.
 
 Ngoài các loại nhạc cụ trên dùng để hợp tấu, trong nhạc cụ Khmer còn có loại dùng độc tấu như hai loại đàn Trô Khse bei Peiâr được dùng trong các dịp cúng tế: giỗ tổ, cầu arăk, cúng neakta; đàn Srâlai được dùng trong một số trường hợp ở sân khấu Rôbam; bộ trống Chhayam bốn chiếc dùng để vỗ trong các điệu múa và các nhạc cụ khác như : Chapei, Khsè diêv, Ta khê thường dùng đệm cho các bản độc tấu trường ca.
 
4.2. Nghệ thuật múa :
 
Trong các bộ môn nghệ thuật, nghệ thuật múa đã được người Khmer chú ý nhiều nhất, múa đã được sử dụng từ trong các sinh hoạt của cuộc sống đời thường cho đến các lĩnh vực văn hóa tín ngưỡng khác, bao gồm múa dân gian và múa chuyên nghiệp.
 
Ram vông, lâm lêv sarvan là ba điệu múa dân gian phổ thông nhất thường được sử dụng từ trước đến nay, đôí với ba điệu múa này hình như bất cứ người Khmer nào cũng biết, cả ba đều có động tác đơn giản và cũng tương tự như nhau, chỉ khác một vài chi tiết. Khi thực hiện múa ram vông thì phải có một đôi nam nữ, người nữ uốn lượn hai bàn tay xoắn đuổi nhau che lấy ngực, về phía nam thì cũng uốn lượn tay nhưng rộng hơn để bao lấy nữ, nữ lượn thân hình đi và nam luôn bước đuổi theo nữ; múa lâm lêv cả đôi nam nữ đều phải uốn lượn hai tay ngang đầu; còn sarvan thì cả đôi nam nữ cũng uốn lượn tay nhưng lại buông xuôi theo thân người; cả hai điệu múa này nam và nữ phải đối diện nhau, bên tiến bên lùi phải đều nhịp. Nếu nhiều đôi nam nữ cùng múa, các đôi luôn di chuyển theo vòng tròn, vừa bước vừa múa theo tiếng nhạc đệm. Ba điệu múa này đã hòa nhập vào mọi sinh hoạt vui chơi và chiếm một vị trí quan trọng trong cuộc sống cộng đồng của người Khmer, nó luôn được thực hiện nối tiếp với nhau và bổ sung lẫn nhau, răm vông thì mềm mại lã lướt, sarvan lại dập dồn nhanh nhẹn và lâm lêv luôn sôi động vui tươi. Từng đôi nam nữ cứ hết múa răm vông lại đến sarvan và sau cùng là lâm lêv cứ luân phiên nối tiếp.
 
Múa dân gian ngoài ba điệu trên còn có múa con sáo (sarikakev) thật là duyên dáng và cuồng nhiệt, mỗi động tác đều như là những tiếng gọi mời của tình yêu; múa trống chhayam là điệu múa dành riêng cho nam thanh thiếu niên trong những ngày lễ; múa đám cưới để biểu lộ phong tục tập quán và tín ngưỡng của người Khmer; múa đám tang mang ý nghĩa khai quan xua đuổi ma quỷ để bảo vệ phần xác của người chết được bình yên; múa cúng neakta và cầu arăk để mời thần hộ độ cho sức khỏe dồi dào và ước muốn thành đạt; múa trong dân ca ayai để tạo điều kiện tỏ tình giữa nam và nữ trong những dịp hội hè, ăn mừng lúa chín. Ngoài ra còn có nhiều điệu múa trong kịch hát Yukê rôbam, đó là đỉnh cao nghệ thuật múa, đã được sáng tạo, truyền dạy và đang từng bước phát triển theo từng giai đoạn phát triển của sân khấu Khmer Nam bộ.
 
4.3. Sân khấu :
 
Sân khấu của người Khmer Nam bộ từ lâu đã được đánh giá cao so với sân khấu các dân tộc thiểu số khác hiện đang có mặt tại Việt Nam. Tiêu biểu nhất trong loại hình nghệ thuật này là kịch hát Rôbam và kịch hát Yukê.
 
Kịch hát Rôbam, đây là loại hình nghệ thuật sân khấu cổ truyền của người Khmer. Trong kịch hát rôbam vũ đạo chiếm một vai trò quan trọng, vừa mở màng đã múa, khi diễn cũng múa nên có người gọi là múa rôbam (răm rôbam) hay hát răm, kịch múa hay nghệ thuật múa sân khấu. Nhưng cũng có người cho rằng khi trình diễn Rôbam, múa được sử dụng rất nhiều nhưng nói và hát vẫn là yếu tố chính để diễn đạt nghệ thuật.
 
Kịch hát Rôbam có nguồn gốc xa xưa từ cung đình, sau đó tản mát trong dân gian, nhiều nghệ sĩ tâm huyết đã lập thành gánh hát để bảo lưu loại hình nghệ thuật này và nó được sự bảo trợ của các phum sóc và các chùa.
 
Điểm đặc biệt của các đoàn hát Rôbam đều trình diễn những tuồng tích cổ, nỗi tiếng nhất là vở Réakér với các vai quen thuộc như hoàng tử Ream tài giỏi nhưng gian truân, nàng Sêđa thủy chung xinh đẹp, khỉ thần Hanuman có nhiều phép lạ... Đa số các vở diễn đều mang nội dung nhân quả báo ứng, làm lành gặp lành làm ác gặp ác, thường thì các vở diễn dài có khi đến ba bốn đêm mới hết, tuy nhiên nó vẫn lôi kéo được người xem, nhất là những người lớn tuổi rất hâm mộ loại hình nghệ thuật này với những ý nghĩa nhân sinh trong tích truyện. Trong thời gian gần đây trước đà phát triển của loại hình nghệ thuật Yukê, kịch hát Rôbam có phần giảm sút, mặc dù vậy ở Nam bộ hiện nay vẫn còn một số đoàn hát rôbam vẫn tiếp tục hoạt động để cố giữ gìn và phát huy loại hình nghệ thuật cổ điển này. Cũng có ý kiến cho rằng nên cách tân nghệ thuật rôbam để phù hợp với thời đại mới, những như trên đã nói vũ đạo là yếu tố quan trọng các vở diễn rôbam và các vai quen thuộc đều là vua, quan, hoàng tử, công chúa, phỉ thần... đa số là các nhân vật được hư cấu từ trong truyện xưa tích cũ, thật sự khó thay đổi bằng các vở diễn mới với các đề tài xã hội đương thời.
 
So với Rôbam, kịch hát Yukê có nguồn gốc gần gũi hơn, nó xuất hiện ngay trên mảnh đất Nam bộ, đã được người Khmer ở Kampuchea gọi là Lakhôn Bassac (kịch hát vùng đồng bằng sông Cửu Long). Loại hình nghệ thuật mới mẻ này đã ra đời và từng bước trưởng thành trong những năm 20 thế kỷ XX, hiện nay chưa có tài liệu chính thức xác nhận người đã khai sinh kịch hát yukê, nhưng căn cứ vào một số nguồn tin điền dã thì đoàn hát yukê đầu tiên ra đời ở Trà Vinh mang tên Kru Kưu, đoàn này còn có tên Việt là Tự Lập Ban, sau đó đổi tên là Nhật Nguyệt Quang rồi đến Nguyệt Quang vốn là tiền thân của Đoàn nghệ thuật Khmer ở Sóc Trăng hiện nay.
 
Về tuồng tích, sân khấu Yukê cũng bắt đầu bằng các loại tuồng cổ Khmer được trích ra từ anh hùng ca Ấn Độ Ramyna; các truyện thần thoại như Lin thông, Mak phu yong kev, Saka minh; các truyện xưa tích cũ của người Việt  như Thạch Sanh chém chằn, con Tấm con Cám... và cả một số tuồng Tàu như Tam Tạng thỉnh kinh, Trụ Vương mê Đắc Kỷ, Tiết Nhơn Quý chinh đông, Thần nữ dâng ngũ linh kỳ. Phàn Lê Huê... Sau thời kỳ chống Pháp trên sân khấu yukê lại liên tục xuất hiện các vở diễn mang tính chất xã hội, những câu chuyện phản ảnh thời đại, mở đầu là vở Người tình trong giông tố đã nói lên tình đoàn kết thắm thiết của người Việt và Khmer trong giai đoạn chống Mỹ, tiếp theo là một loạt các vở Máu nhuộm nền chính điện, Mối tình Bôpha reang set, Phản bội lời thầy... mỗi vở đều có những đóng góp nhất định.
 
Nội dung các vở diễn của sân khấu Yukê dù xưa hay nay đều biểu dương cái thiện - đề cao chính nghĩa và những chuyện tốt lành. Các vai chính nam đại diện cái thiện thường là hoàng tử, một bậc anh hùng luôn cứu dân giúp nước, hoặc là những nông dân nghèo khổ hiền lành bị áp bức đủ điều nhưng cuối cùng vẫn tai qua nạn khỏi; Các vai chánh nữ thường là một công chúa, một nữ anh hùng hoặc một người vợ đức hạnh, một phụ nữ trung kiên yêu nước yêu nhà sẵn sàng hy sinh vì chính nghĩa; các vai thiện còn có Phật, tiên ông và những người chân chánh. Về vai ác thì sân khấu yukê cũng “giàu có” hơn sân khấu Rôbam, ngoài chăn là vật tượng trưng cho cái ác và vua ác, tưởng còn có những con người nở nhẫn tâm tàn sát đồng bào, phản bội quê hương, những kẻ âm mưu ly gián chia rẽ nội bộ, những người vì lợi ích riêng bất chấp pháp luật làm ăn phi pháp... Đoạn kết của vở diễn luôn luôn kẻ ác bị tiêu diệt - cái thiện luôn thắng cái ác.
 
Trên sân khấu Yukê, múa không được sử dụng rộng rãi, chỉ trừ một số tuồng tích cổ có sự biểu diễn của múa, còn các vở diễn hiện đại thì múa ít khi được sử dụng. Về nhạc cụ ngoài dàn nhạc ngũ âm thường gặp trong sân khấu rôbam, còn có dàn nhạc tây với bộ trống jaz, ghi ta điện... Về làn điệu của Yukê, hiện thấy có 4 điệu chính :
 
         - Điệu Sâm pông dành cho các cảnh ly tan, đau đớn.
         - Điệu Angkô reach dành cho các cảnh u buồn.
         - Điệu Mahôrí thường dùng cho các vai nữ trong các cảnh than thân, trách phận thương nhớ người yêu.
         - Điệu Phát cheang áp dụng trong các cảnh giận dữ, quát tháo.
 
Ngoài ra trong sân khấu Yukê còn thấy cả một số làn điệu của tuồng Tàu, tuồng Việt từ các bộ môn nghệ thuật hát bội, cải lương, hồ quảng, dân ca...
 
Nghệ thuật biểu diễn của sân khấu yukê hiện nay cững gần gũi với cải lương Nam bộ, các vở diễn cổ xưa đang dần dần được thay đổi bằng các vở mới phản ảnh cuộc sống của con người trong thời đại mới, các lối trang trí sân khấu, hoặc trong nhân vật càng ngày càng gần gũi với quần chúng hơn, số lượng đoàn hát Yukê ở Nam bộ càng ngày càng nhiều để có thể phục vụ đầy đủ hơn đối với nhu cầu của người xem, nhất là nông dân Khmer ở các vùng đồng bằng sông Cửu Long luôn xem yukê là món ăn tinh thần rất cần thiết.
 
4.4. Kiến trúc chùa :
 
Đối với người Khmer chùa là nơi tôn nghiêm nhất mà cũng là nơi thân thiện nhất, chùa hầu như gắn liền với mọi sinh hoạt trong đời sống của mọi người, chùa là linh hồn của phum sóc, là đại biểu văn hóa của một địa phương. Vì vậy việc kiến trúc chùa là một công việc rất quan trọng nó đòi hỏi không những phải có trình độ kỹ thuật xây dựng cao mà còn phải có khả năng lớn về nghệ thuật kiến trúc. Ngôi chùa Khmer luôn được xây dựng nơi cao ráo, khoáng đảng và yên tịnh; mỗi ngôi chùa là một quần thể kiến trúc bao gồm nhiều khu vực kiến trúc như : Chính điện, sala, nhà tăng, nhà thiền, nhà thiêu và những tháp để cốt.
 
Chính điện là nơi thờ Phật được xây dựng ở trung tâm ngôi chùa, nền chính điện thường là hình chữ nhật bề dài gấp đôi bề ngang, được xây cao khoảng một mét. Hàng cột phía ngoài thường được làm theo kiểu Côrinthial, khoảng giữa đầu cột và mái ngói thường có gắn một khuôn đúc bằng xi măng hình chim (krud) hoặc một tiên nữ (kenâc) hàng cột phía trong chính điện thường có hình vẽ rồng uốn quanh thân cột và trên đầu cột và chân cột thường được viền hoa văn.
 
Cột kèo khung sườn của các ngôi chùa cổ đều được làm bằng gỗ quí, mái chùa có cấu trúc rất tinh vi, đa số đều lợp ngói những cũng có nới mái được đúc bằng xi măng có cẩn gạch âm dương và viền màu xanh màu đỏ. Mỗi mái chùa có ba bậc, mỗi bậc có ba nếp, đỉnh chùa thường là một góc nhọn 600, hai bên đầu song được đóng kín bằng miếng ván hình tam giác được trạm trổ rất công phu gọi là Hô cheang. Hai bên nóc chùa được thiết kế như hai đuôi rắn dài và cong, giữa nóc có một hoặc ba ngôi tháp thật đẹp, nóc tháp to lớn gồm nhiều tầng phía trên là tượng đầu thần bốn mặt Maha Prum và trên cùng là một thu lôi, các tầng bên dưới thường được khắc những đầu rồng thật đẹp.
 
Phía dưới chính điện là một khoảng rộng dành làm nơi hành lễ, sự bày trí ở đây rất đơn giản, chính giữa là bệ thờ bên trên là tượng Phật Thích Ca được đặt xoay mặt về hướng Đông. Người Khmer nói riêng và các dân tộc khác theo hệ phái Nam tông đều chỉ thờ Phật Thích Ca, không thờ các Phật khác như hệ phái Bắc tông, dù cho bên trong chính điện còn thờ nhiều tượng Phật nhỏ khác nhưng cũng chỉ là tượng Phật Thích Ca trong nhiều tư thế khác nhau.
 
Sala là nhà hội của chư tăng và phật tử, là một bộ phận được kiến trúc hình chữ nhật được xây dựng đầu tiên của ngôi chùa; Sala là nơi tiếp khách thập phương; Ở đây cũng có bàn thờ Phật nên cửa Sala phải quay về hướng Đông. Sala ngày xưa thường là một gian nhà sàn bằng gỗ, mặt sàn cách mặt đất từ một mét trở lên, những nay đa số được xây theo kiểu dáng hiện đại, nền được xây cao.
 
Sala được bố trí đơn giản hơn chính điện, thường là gồm một gian phòng rộng dùng làm nơi ăn uống cho các sư và cũng là nơi sinh hoạt các lễ tục, một gian phòng khác để tiếp khách, một gian nhỏ để dàn nhạc, đôi khi ở đây cũng có ngăn phòng cho sư sãi nghỉ. Bốn bên vách tường và trần nhà thì cũng như chính điện đều có trang trí hoa văn khéo léo, vẽ nhiều tranh ảnh lộng lẫy.
 
Ngoài các khu vực kiến trúc khác, mỗi chỗ đều có một đặc điểm thẩm mỹ riêng, như khu tháp để cốt thường là nhiều cái giống nhau gồm chân tháp hình vuông, thân tháp có nhiều tầng với nhiều hoa tiết hoa văn rất đẹp, trên cùng là đầu tháp đỉnh nhọn, đôi khi là đầu thần bốn mặt Maha Prum. Bên ngoài là cổng chùa cũng là một công trình kiến trúc rất khéo léo, cổng chùa thường xoay về hướng Đông, những mỗi nơi lại có kiểu dáng khác nhau; một số nơi cổng được xây dựng rất lớn, bên trên là ba ngọn tháp theo kiểu tháp Ăngkor, bên dưới thường là những hoa văn hình ảnh rất tinh xảo.
 
Đặc điểm nỗi bật của nghệ thuật kiến trúc chùa Khmer là điêu khắc, hội họa và hoa văn trang trí. Về điêu khắc ngoài các tượng Phật Thích Ca với các kiểu dáng khác nhau như tượng Phật giáng sinh (đứng) Phật tọa thiền (ngồi), Phật nhập niết bàn (nằm), Phật ngồi trên rắn thần Muchalinda, Phật đi khất thực, Phật tu khổ hạnh, Phật thuyết pháp... còn có các tượng thần Kabit maha prum, tượng chằn người chim (krud), tiên nữ (ken nâr), hung thần (Rea hu), quái vật mình rồng đầu sư tử (Reach cha sei), rắn thần Naga, khỉ thần Hanuman, rồng (phu chông), nữ thần đất Neang Hing thôrni, vũ nữ Apeara...
 
Về hội họa, đa số tranh ảnh đều rút ra từ truyện tích cổ xưa, truyền thuyết Phật giáo, sinh hoạt cộng đồng, nhiều nhất là các tranh ảnh diễn tả từ lúc Phật đản sinh đến nhập niết bàn, ca ngợi sự toàn năng toàn giác của Phật.
 
Các hoa văn trang trí thường là các hình ảnh quen thuộc trong thiên nhiên như : Hoa sen nở, hoa sen búp, hoa cúc, hoa hồi (chan), hoa reang, hoa dây leo (phnhivâr), cành hoa (phnhitês), ngọn lửa (phunhipling)... Các hoa văn được kết cấu rất phức tạp những cũng rất hài hòa ở từng bộ phận kiến trúc khác nhau, kể cả các bộ phận nhỏ như : Chân tường, hành lang, đầu cột, đầu hồi, diềm mái, khung cửa cái, cửa sổ ... đều được trang trí rất đẹp.
 
Chùa Khmer dù lớn hay nhỏ, dù ở địa phương nào nào cũng thường là một quần thể kiến trúc rất công phu, mỗi một khu vực, mỗi một vị trí kiến trúc đều là sự phối hợp bởi những đường nét nghệ thuật thật độc đáo và hài hòa, đã diễn đạt được những ý nghĩa sâu xa và thâm thúy Phật giáo, đã minh họa những hình ảnh cổ xưa theo tín ngưỡng dân gian đồng thời đã diễn tả được những sinh hoạt cộng đồng của người Khmer Nam bộ; chùa Khmer thật sự là một sản phẩm văn hóa dân tộc đã gắn liền với cuộc sống của người Khmer trong nhiều thế kỷ qua và trong hiện  tại cũng đã góp phần không nhỏ làm thẩm mỹ hóa nghệ thuật kiến trúc của các dân tộc ở các tỉnh thuộc vùng đất phía Nam.
 
5/- PHONG TỤC VÀ LỄ HỘI :
 
Về phong tục tập quán và lễ hội truyền thống của người Khmer có rất nhiều đặc điểm; trong đó họ không có sự phân biệt  về phong tục và lễ hội như người Kinh, nhưng lại phân chia giữa lễ tục dân gian và lễ tục có liên quan đến Phật giáo. Người Khmer dùng thuật ngữ Pithi để gọi chung các phong tục tập quán và lễ hội dân gian như : Lễ Tết (Pithi Chuôl chnam thmây). Lễ cúng tổ tiên (Pithi Sen Đôn ta), lễ cưới (Pithi Apea pincath)... và dùng thuật ngữ Bon để chỉ những lễ hội trang trọng và những phong tục mang màu sắc Phật giáo nam tông như : Lễ Phật đản (Bon Pisakh
Bâuchea)
Bâuchea), lễ nhập hạ (Bon châul vâssa), lễ cầu phước (Bon Đa), lễ hội linh (Bon Pchum bôn), lễ tang (Bon Sôp)... Sau đây là một số phong tục và lễ hội tiêu biểu :
 
5.1- Lễ Tết  (Chuôl chnam thmây)
 
Tết là một lễ hội lớn mang ý nghĩa trọng đại đối với mọi dân tộc trên thế giới, nhưng nó lại tùy thuộc vào phong tục, tập quán, tính chất văn hóa của từng địa phương nên mỗi nơi, mỗi chổ lại có những cái tết khác nhau. Người Khmer ở Nam bộ từ lâu đời, đã hòa nhập cuộc sống với người Hoa, người Việt, một số đã hưởng ứng cái tết Nguyên Đán của ta, tuy nhiên họ vẫn giữ cái tết cổ truyền được tổ chức hàng năm.
 
Người Khmer  gọi  tết  Chuôl chnam thmây, có nghĩa vào năm mới, thường là ba ngày trong tháng Chétt (cũng có năm lọt vào tháng khác, như năm 2002 ba  ngày tết Chuôl chnam thmây được tổ chức vào đầu tháng Pisak), nhưng dù ở tháng nào theo lịch Khmer cũng nhằm ba ngày 14, 15, 16   tháng 4 dương lịch (nếu năm nhuần ăn tết thêm ngày 13/4 dl). Theo ngày xưa nghi lễ quan  trọng nhất  trong  ngày tết là đắp các núi cát và tắm Phật, số núi cát được đắp thành 5 ngọn : Ngọn giữa là núi Soméru tượng trưng cho trung tâm vũ trụ, có sự chầu phục chung quanh bởi 4 ngọn : Nam, Bắc, Đông, Tây. Ngày xưa ở Campuchia, trước tết một tuần, nhà vua đã đến tham dự đắp núi cát ở đồi bà Tênh, đó là ngọn đồi lớn ở Campuchia trên đỉnh đồi có một ngọn tháp lớn (stupa) đã được xây dựng vào thời Pônhêa Yat. Kế đó nhà vua lại trở về dự lễ đắp núi cát ở chùa Bạc gần hoàng cung. Trước khi nhà vua tới chùa, người ta đã dự bị sẳn một số cát lấy từ Long Vếch (Thủ đô cũ từ thế kỷ XVI, thuộc tỉnh Pông Chnăng) số cát này sẽ được nhà Vua quăng vào 5 ngọn núi cát ở chùa Bạc khi làm lễ; các triều thần theo nhà vua cũng quăng cát vào nhưng cát của họ là lấy từ sông Mékông. Sau năm 1949 lễ đắp núi cát ở Phnôm Pênh không còn nữa, nhưng ở các tỉnh vẫn còn, nhất là tỉnh Xiêm Riệp lễ này được tổ chức rất lớn, khi tết đến mọi người đến chùa đắp 5 hoặc 9 ngon núi cát theo hình tháp dưới gốc cây Bồ đề; mọi người tụ họp xung quanh các núi cát đốt hương, dâng hoa, cúng bái, cầu nguyện và ném vào núi cát bằng những nắm cát của mình. Vào buổi chiều người trong chùa tổ chức tắm Phật cầu cho mưa thuận gió hòa làm ăn phát đạt.
 
Trong 3 ngày tết có rất nhiều trò chơi như : Đá cầu, ném banh, kéo co, rồng rắn, bịt mắt bắt dê... Nhưng phổ biến nhất là trò ném “còn” giữa hai đội nam và nữ, quả còn làm bằng cái khăn cuộn tròn, bên nọ ném cho bên kia, vừa ném vừa hát. Ở nhiều tỉnh còn tổ chức múa “trốt” đi từ nhà này sang nhà khác, làng nọ sang làng kia vừa đi họ múa hát. Mỗi người trong đoàn, trên tay cầm cái gậy, trên đầu gậy buộc những tua vải đủ màu; họ vừa đi vừa dùng đầu gậy gõ nhịp nhàng xuống đất, có một người đóng vai trò thợ săn, hai người khác giả làm hưu. Đoàn “trốt” đi đến đâu cũng được người ta thưởng tiền hoặc quà bánh.
 
Người Khmer ở Nam bộ rất đông nên cái tết Chuôl chnam thmây ở đây cũng khá nhộn nhịp. Ngay từ đầu tháng 4 dương lịch, mọi nhà đều chuẩn bị bánh mức đồ ăn thức uống các loại, cũng gần giống như người Việt hay người Hoa đón xuân nhưng đặc biệt nhất của người Khmer là 5 loại bánh : Nùm chruốt (bánh tét nhưn mỡ), Nùm chết (bánh dừa nhưn chuối), Nùm tiên (bánh ít), Nùm niềng nóc sùm bóc cháp (bánh bột nhưn dừa) thì nhà nào cũng có. Ngay trong ngày thứ nhất, vừa sáng sớm mọi người tắm gội sạch sẽ, thay quần áo mới và chuẩn bị hương đăng hoa quả và cơm nước để đi chùa cúng Phật và làm lễ rước đại lịch (Maha sang kram). Ở đây có một vị gọi là Acha điều khiển mọi người đứng xếp hàng rồi đi vòng quanh chánh điện ba lần như các nhà sư đi kinh hành để làm lễ chào mừng năm mới. Sau lễ rước đại lịch tất cả chư tăng cùng tín đồ lễ Phật và tụng kinh mừng năm mới. Đến đêm những người lớn tuổi tụ họp trong nhà nghe sư thuyết pháp, còn các thanh niên nam nữ ra sân chùa tham gia các cuộc múa hát vui chơi.
 
Sang ngày thứ hai, từ sáng sớm người ta đã làm lễ cúng dường dâng cơm cho các nhà sư (Ween chông ham). Thường ngày thì người Khmer trong các thôn xóm gần chùa đều có tổ chức từng nhóm để cúng dường, mỗi nhóm gồm vài nhà cùng chịu trách nhiệm nấu nướng thức ăn và dâng cơm cho sư sãi theo từng đợt, hết nhóm này đến nhóm khác thay phiên lẫn nhau. Nhưng trong ngày tết các sư có thể nhận cúng dường một lúc từ nhiều tín đồ. Trước khi ăn các sư phải tụng kinh để chúc phúc cho người cúng dường, đồng thời làm động tác ban thức ăn cho những oan hồn vô chủ.
 
Vào chiều ngày thứ hai này, người ta tổ chức đắp núi cát gọi là Puôn phnum khsach. Hình thức đắp núi cát ở đây cũng thay đổi ít nhiều, trong những ngày gần tết người ta đến các cửa hàng mua bán vật liệu mua một số cát (tùy lòng hảo tâm) số cát này được xe chở đến đổ trước sân chùa thành một đống cát to, trước để làm lễ sau dùng làm vật liệu xây cất các công trình công cộng. Theo sự hướng dẫn của vị Acha người ta dùng số cát này đắp thành 9 ngọn núi nhỏ, tám ngọn ở tám hướng và một ngọn ở chính giữa tượng trưng cho trung tâm trái đất và bốn phương tám hướng của vũ trụ, đắp núi xong lại làm hàng rào bằng tre (hoặc vật liệu khác) bao quanh chín núi cát. Sau đó các sư làm lễ quy y, lễ cầu phúc..., tất cả các nghi lễ này gọi chung là lễ Phúc duyên đắp núi cát (Ani sơn puôn phnum khsach). Tục đắp núi cát của người Khmer trong ngày mở đầu của năm mới có ý nghĩa ngăn trở ma quỷ và những điều không tốt lành, đồng thời cũng để nhắc nhở mọi người nên tích công tích phúc lâu dần sẽ lớn như núi và sẽ lan tràn khắp tám phương. Ngoài ra người ta còn đắp núi đất, núi đất thường được thực hiện ở nơi đất thấp trong khuôn viên nhà chùa để khi xong tết được ban ra làm nền cho cao ráo. Ngoài ra còn có núi thóc, núi gạo để chuẩn bị chi dùng trong lễ an cư kiết hạ (Votsa) trong 3 tháng 6, 7 và 8.
 
Ngày thứ ba có lễ tắm Phật rất quan trọng, lễ này được tổ chức theo thứ tự, trước nhất các nhà sư trong chùa dùng nước thơm để tắm các tượng Phật kế đến các phật tử thay phiên nhau làm theo các nhà sư. Người Khmer rất thành tâm trong lễ này, mọi người đến cầu Phật gia hộ cho sức khỏe được nhiều, mùa màng được trúng, ý nguyện được thành, xóm làng yên ổn, tai nạn tiêu trừ. Sau lễ tắm phật là lễ Khma cũng như lễ xám hối ở các chùa Việt, trong lễ này các sư làm lễ trước, phật tử làm lễ tiếp theo. Một số nơi sau lễ tắm Phật còn tắm các vị sư sãi cao niên đức cao vọng trọng.
 
Người Khmer không có tết Thanh Minh như người Hoa và người Kinh nên việc tảo mộ ông bà được thực hiện ngay trong tết Chuôl chnam thmây. Sau lễ tắm Phật mọi người đi viếng tháp viếng mộ và nhờ các sư làm lễ cầu siêu, các tháp hội không có thân nhân cũng được nhà chùa cúng tế, cầu siêu; lễ này gọi là Băng skôi. Viếng mộ xong mọi người trở về nhà làm lễ tắm tượng Phật ở gia đình; việc kế tiếp là con cháu trong nhà đem bánh mức trà rượu đến mời ông bà cha mẹ ăn uống đồng thời dâng những lời chúc tụng đầu năm và hứa hẹn những việc làm trong năm mới. Ngày xưa còn có tục tát nước vào người lớn tuổi để lấy hên, nhưng đến nay không còn nữa và đổi lại chỉ thắm nước bông hoa vào quần áo, đồ dùng của ông bà cha mẹ để chúc phúc.
 
Tóm lại 3 ngày tết, mọi người đều tụ họp ở chùa, trong các ngày này nhà nào cũng chuẩn bị đồ ăn từ sáng sớm để mang vào chùa, trước tiên là làm lễ tam bảo, kế đến cúng dường quí sư, sau ăn uống vui vẻ với nhau, khi ăn xong mọi người ngồi lại nghe sư thuyết pháp..
 
Trong tết Chuôl chnam thmây văn nghệ cũng được xem trọng, các chùa đều có tổ chức văn nghệ, người ta mời đoàn văn nghệ đến phục vụ, hoặc tổ chức văn nghệ nghiệp dư tại chùa. Về trò chơi cũng rất vui nhộn, có trò kéo co, bóng chuyền... thật hào hứng, đặc biệt là trò chơi “Bo suông” gồm một đội nam và một đội nữ ném khăn cho nhau để hát đối đáp như hình thức hát giao duyên của người Việt. Trong đêm cuối cùng, mọi người vui chơi, đàn hát, nhảy múa, kể chuyện ... đến khi trời sáng.
 
Đối với người Khmer, chùa là chổ dựa tinh thần của mọi người, là nơi tín ngưỡng tôn nghiêm nhất, cũng là trung tâm văn hóa của địa phương, vừa là nơi sinh hoạt cộng đồng, cho nên khi tết đến người Khmer không phải chỉ đến chùa để viếng chùa như người Hoa hay người Kinh mà tất cả đều tập trung ở chùa để ăn tết, xem đây như là mái nhà chung của mình. Cái tết Chuôl Chnam Thmây cũng như tết Nguyên Đán, nó có ý nghĩa rất trọng đại, vừa là ngày mở đầu cho năm mới, ngày mở đầu cho thời vụ, cũng là ngày vui tươi hạnh phúc nhất trong năm, đối với thanh niên nam nữ đây là cái dịp để làm quen, trao đổi, tâm sự, hẹn hò... để chuẩn bị cho một tương lai tươi sáng.
 
5.2 Lễ cúng ông bà  (Pithi Sen Đônta)
 
Người Khmer thời xưa không có thói quen tổ chức lễ giổ hằng năm cho những ông bà như người Kinh mà các công việc đền ơn đáp nghĩa tổ tiên, báo hiếu người dưỡng dục sanh thành - nói chung những người quá cố của gia đình trong thân tộc, người Khmer đều tập trung tế lễ trong ba ngày từ ngày 29 tháng 08 đến ngày mùng 1 tháng 9 âm lịch, đó chính là lễ Sen Đônta - lễ cúng tổ tiên. Ba ngày của lễ này mang ba ý nghĩa khác nhau, ngày thứ nhất là ngày nghinh tiếp tổ tiên, ngày thứ hai là ngày lưu giữ tổ tiên, ngày thứ ba là ngày tiễn đưa tổ tiên; cả ba ngày đều được cúng kiến thật linh đình, ngày nào cũng tế lễ tụng kinh cầu siêu cầu phước cho những linh hồn đã quá cố.
 
Ngày thứ nhất : Đây là ngày quan trọng nhất trong lễ Sen đônta, các thành viên trong gia đình đều phải có mặt đông đủ để tiếp đón vong linh những người đã mất. Việc đầu tiên là họ dọn dẹp bàn thờ Phật cho tươm tất sạch sẽ, trưng bày hương hoa thanh khiết, nhà nào có bàn thờ tổ tiên cũng được trang hoàng bày trí mới mẻ. Việc kế đó là trải chiếu mới lên giường đồng thời sắp đặt mùng mềm gối mới và một bộ quần áo thật mới lên chiếu cùng với trà rượu bánh trái tùy theo mỗi gia đình. Xong lại dọn lên một mâm cơm, đây là giờ khắc trang trọng mọi người trong gia đình tụ tập lại để cúng tế, thường khi họ đốt nhang đèn và bới bốn chén cơm, mỗi chén kèm theo một đôi đủa để cạnh mâm đồ ăn đã được chuẩn bị sẳn. Những người trong nhà vây quanh khấn vái mời mọc tổ tiên và những người đã mất về ăn uống. Suốt thời gian cúng cơm, họ khấn vái ba lần, mỗi lần đều có rót trà và rượu. Đến tuần trà rượu thứ ba kể như xong, họ dọn dẹp và mời vong linh tổ tiên nghỉ ngơi trên chiếc giường đã được bố trí sẵn mềm gối.
 
Theo thông lệ, trước khi dọn dẹp, chủ nhà lấy một cái chén sạch gắp thức ăn mỗi thứ một ít vào chén xong lại đổ trà và rượu vào rồi đem ra để phía trước sân có cắm một cây nhang để mời ma quỉ ăn uống. Theo lòng tin của người Khmer thì đây là những vong hồn làm nhiệm vụ “bảo hộ” tổ tiên  của họ về nhà và những vong hồn này sẽ ở lại nhà của họ suốt ba ngày lễ, sau đó sẽ đưa tổ tiên của họ về chốn cũ, vì vậy bất cứ bửa cúng cơm nào cho tổ tiên cũng phải kiến cho các vong hồn này một phần thức ăn.
 
Đến chiều ngày thứ nhất, người Khmer lại dọn cơm cúng tổ tiên thêm một lần nữa, cũng trà rượu ba tuần mời tổ tiên như buổi sáng, xong họ lại “mời” tổ tiên cùng với họ vào chùa để nghe kinh do chư tăng tụng niệm. Đối với người Khmer người sống nghe kinh sẽ được phước báo và linh hồn nghe kinh sẽ được chóng vãng sinh. Sau khi nghe kinh họ lại “mời” tổ tiên đi xem múa hát, diễn trò cùng các tiết mục văn nghệ khác. Sau đó mỗi gia đình cử một vài người về coi nhà còn phần lớn đều ở lại chùa cùng với tổ tiên của họ suốt đêm hôm đó.
 
Ngày thứ hai : Trọn một ngày từ sáng đến chiều, hầu hết mọi người trong các phum sóc đã có mặt trong chùa để vui chơi cùng tổ tiên của họ; ngôi chùa gần như là ngôi nhà chung, tất cả các cuộc vui chơi ăn uống, giao lưu - các thứ sinh hoạt đều xảy ra ở đây. Về ăn uống thì mỗi gia đình đều mang thức ăn theo, khi ăn họ chỉ chọn một chổ có bóng mát như mái hiên hay tàng cây nào đó rồi cả gia đình sẽ quây quần ăn uống và cúng kiến tổ tiên y như trong nhà của họ. Chiều ngày hôm đó mọi người lại mời tổ tiên về nhà “ăn” bữa cơm chiều và cũng như các bữa cơm trước sau cúng cơm chủ nhà và con cháu mời tổ tiên nghỉ ngơi; đặc biệt đêm nay người Khmer tin là đêm tổ tiên sẽ ở nhà cùng với con  cháu.
 
Ngày thứ ba : Ngay từ sáng sớm, mỗi gia đình đều chuẩn bị sẵn nhang đèn và mâm cơm để tiễn đưa tổ tiên của mình về “nhà”. Con cháu có mặt đầy đủ, chủ nhà đại diện bới cơm mời mộc, khấn vái và sau ba tuần trà rượu họ lại đổ tất cả cơm nước, thức ăn và rượu vào một chiếc thuyền làm bằng bẹ chuối để tổ tiên và các quân gia ăn trên đường về. Chiếc thuyền này thường được làm rất công phu, thường thì mỗi chiếc thuyền đều có khắc hình cá sấu thật giống để chống các loài thủy tộc và trên thuyền có cắm  hình tam giác để trừ ma, yếm quỷ đến quấy phá. Sau khi chất chứa thức ăn đầy đủ, chiéc thuyền tàu chuối được đem thả trên sông rạch gần nhà, con cháu nhẹ nhẹ đẩy thuyền xuôi dòng và chúc tổ tiên bình an về chỗ cũ. Sau đó họ trở về nhà tiếp tục vui chơi ăn uống cho đến hết ngày hôm đó. Trong lễ tiễn đưa này cũng có môt số gia đình mời sư sải đến tụng kinh để cầu phước cho tổ tiên.
 
Lễ Sen Đônta hôm nay đã có thay đổi ít nhiều để cho phù hợp với hoàn cảnh gia đình và xã hội của từng địa phương, nhưng cũng chỉ thêm bớt một vài chi tiết nhỏ, còn cái chung thì người Khmer vẫn giữ được truyền thống cổ xưa.
 
5.3 Cưới hỏi  (Pithi Apea pipeah)
 
Người Khmer do ảnh hưởng quan niệm cởi mở của Phật giáo nên thanh niên nam nữ đến tuổi trưởng thành được tự do yêu nhau, tự tìm cho mình đối tượng trong tình yêu lứa đôi để xây dựng hạnh phúc trăm năm. Chỉ trừ anh chị em ruột không được lấy nhau, còn bà con họ hàng thân thuộc khác nếu đôi bên đồng ý đều có thể kết hôn, ngày xưa những gia đình giàu có còn khuyến khích họ hàng lấy nhau để thêm gần gũi và nhất là để bảo vệ của cải không lọt ra bên ngoài, việc yêu đương thì dễ dãi, nhưng ngược lại thủ tục cưới gả theo cổ lệ thì phức tạp vô cùng, phải trải qua nhiều lễ tục không thua gì lục lễ của nhà Nho. Đám cưới của người Khmer theo phong tục cổ truyền phải qua các giai đoạn sau đây :
 
- Lễ Ăn trầu : (Si sla dâk) : Đối với người Khmer việc dựng vợ gả chồng là việc chọn giống thích hợp để sinh con để cái, để lưu truyền tông tộc, vì vậy sau khi đôi trai gái đã trải qua thời kỳ tìm hiểu, nếu đã tâm đầu ý hợp thì cha mẹ (hay người thay thế) đàng trai sẽ nhờ người mai mối (Maha) sắm sửa trầu cau đến nhà đàng gái để cầu hôn.
 
- Lễ Hỏi : (Si sla kâl sèng) : Sau lễ ăn trầu, nếu đàng gái đã thống nhất thì đàng trai tiến hành lễ hỏi hình thức lễ này cũng gần giống như lễ hỏi của người Kinh đó là lễ chính thức đầu tiên xác nhận sự thuận tình của đôi trai gái và cũng là lễ ràng buộc quan hệ sui gia của đàng trai, đàng gái với nhau. Đối với lễ ăn trầu (Si sla dâk), sau đó đàng gái có thể từ chối cuộc hôn nhân, nhưng nếu đã ăn hỏi (Si sla kâl sèngs) rồi thì cuộc hôn nhân lứa đôi ít khi bị đình hoãn. Trong lễ hỏi đàng trai trình ngày cưới. Thường thì ngày cưới phải tránh các tháng Mưc kă sê (khoảng giữa tháng 11 đến giữa tháng 12 dl), Mesk (khoảng giữa tháng 1 đến giữa tháng 2 dl), Chett (khoảng giữa tháng 3 đến giữa tháng 4 dl) và nhất là những tháng trong thời gian các sư nhập hạ (từ 15/6 đến 15/9 âm lịch) ngoài ra những tháng có 29 ngày cũng không được chọn. Ba tháng thường được chọn là Bôs (khoảng giữa tháng 12 đến giữa tháng 1 dl), Phol kun (khoảng giữa tháng 2 đến giữa tháng 3 dl), Pisat (khoảng giữa tháng 4 đến giữa tháng 5 dl) đó là những tháng tốt dùng để tổ chức lễ cưới. Về ngày cưới cũng xem rất kỷ, trên cơ sở ngày tháng năm sinh của đôi trai gái vào tháng trăng tròn hay trăng khuyết, nếu ngày trăng tròn thì chọn ngày 7, 9, 11, 13 còn nếu trăng khuyết thì chọn các ngày 2, 4, 8, 10, 12. đó là những ngày tốt cho cuộc hôn nhân, gọi là đã chọn được Pile (ngày thích hợp), cũng có tài liệu nói trong mỗi tháng đều có tám ngày tốt đó là các ngày : 7, 9, 10, 11, 17, 19, 24 và 25.
 
- Lễ Xin cưới  (Si sla banh cheab peak) : Lễ này diễn ra trước ngày cưới, nhà trai mang lễ vật trà rượu trầu cau bánh trái đến nhà gái để xin cưới. Đặc biệt lần này có mang theo cả trang sức như bông tai, vòng, nhẫn bằng vàng hoặc bạc để tặng cô dâu. Sau lễ này kể như chính thức vào lễ cưới, hai bên trai gái đều có sự chuẩn bị.
 
- Vào lễ cưới ( Peel riep ka) : Trước ngày cưới một hôm, đàng trai qua nhà đàng gái dựng rạp cưới (Thngay chôl rông ka), theo phong tục xưa thì rạp phải rộng ba gian : Một gian đãi khách, một gian nấu nướng, một gian dùng cho chú rễ nghỉ ngơi. Lễ cưới thường được tổ chức ở nhà gái (Vive hăm mang kol), những có khi cũng vừa tổ chức ở nhà trai (Ave hăm măng kol). Lễ cưới được tiến hành trong ba ngày với nhiều chi tiết lễ tục như sau :
 
Ngày thứ nhất : Sáng ngày thứ nhất, nhà trai chuẩn bị các loại lễ vật để mang sang nhà gái gồm : Trà rượu, trầu cau, bánh trái và thức ăn các loại... mỗi thứ đều phải một đôi vì người Khmer rất kỵ số lẻ. Đến xế chiều nhà trai tổ chức một đoàn người gồm : Chú rễ, cha mẹ chú rễ, họ hàng cô bác lớn tuổi, một số thân nhân bè bạn của chú rễ để bưng các mâm lễ vật, đòan người này do ông  điều khiển nghi lễ (Acha Pă lia) và hai ông mai (Maha) hướng dẫn - những người này thường lớn tuổi, có vợ chồng đủ đôi, con cháu đông đúc và hiểu biết rành các lễ tục cưới hỏi; ngoài ra còn có một dàn nhạc cưới đi theo (Vong phlêng ka) để hát chúc mừng.
 
Ngày hôm đó nhà gái đóng kín cửa cổng tương trưng cho sự thanh khiết của cô dâu. Khi đến công ông Maha hướng dẫn đoàn người bày các mâm lễ vật và nói lời cầu xin, như xin đất làm nhà, xin giếng múc nước, xin phép được vào, xin chủ nhà mở cửa..., nhà gái vẫn chưa mở cửa, ông Maha phải rút dao ra múa, gọi là múa mở rào (Răm bơk rôbăng), múa cho đến khi nhà gái mở cửa mới ngưng. Đoàn nhà trai tiến vào dâng lễ vật, dàn nhạc tấu lên trong lúc làm lễ.
 
Ngày thứ hai : Đây là ngày chính thức của lễ cưới, ngay từ sáng sớm là lễ cúng tổ tiên và ăn trầu để đính ước (Kâm nât). Đến chiều làm lễ cắt tóc cho chàng rễ và cô dâu tượng trưng cho sự làm đẹp. Kế đến chàng rễ thực hiện nghi thức trình diện thần bảo hộ phum sóc (Neakta) bên nhà gái để thần công nhận thêm một thành viên mới của cộng đồng. Tối hôm đó khoản đãi khách hai họ và một việc quan trọng nhất của đêm này là mời các sư ở chùa đến tụng kinh cầu phúc. Đến khoảng gần nữa đêm, hai ông Maha của hai họ chọn 4 cặp nam nữ thanh lịch để gói bánh trước cúng Phật sau dâng cho cha mẹ nhà gái tượng trưng cho sự báo hiếu công ơn dưỡng dục sinh thành.
 
Ngày thứ ba : Sau khi chú rễ và cô dâu thực hiện các nghi thức lễ lạy ông bà, cha mẹ, cô bác, họ hàng xong, ông Acha Pă lia dẫn hai người đến bàn ông thiên (Rean Têvôda) ngồi xoay về hướng mặt trời để chờ lấy giờ tốt (pèle), đến khi mặt trời mọc ông Acha Pă lia đánh cồng ba lần và cô dâu chú rễ cũng bái ba lần để lấy pèle. Kế đến là lễ rắc hoa cau (Phka sla) lên người cô dâu chua rễ, rắc cả đường đi từ chổ ngồi đến cửa buồng cô dâu. Sau đó là lễ rút gươm (Dơr po pil), lễ này tượng trưng cho chính nghĩa thắng gian tà và quyết tâm bảo vệ hạnh phúc, có nguồn gốc từ trong một truyền thuyết dân gian - một tên tiêu nhân hại bạn đoạt vợ nhưng bất thành đã bị trị tội bằng lưỡi gươm ngay đêm tân hôn. Sau lễ rút gươm là lễ buộc chỉ cổ tay (Chân đay) ông Acha Pă lia vừa múa trước mặt cô dâu chú rễ vừa mời họ hàng, thân tộc, bè bạn, quí khách đến buộc chỉ vào cổ tay cho cô dâu chú rễ, người đến buộc phải đủ đôi và khi buộc có kèm theo tặng phẩm như tiền bạc, đồ trang sức... với những câu chúc mừng hạnh phúc trăm năm.
 
- Lễ vào phòng (Phsâm đâm nêk) : Sau khi nhận tặng vật của anh em, bè bạn, ông Maha hướng dẫn cô dâu chú rễ theo đường đã rắc hoa cau để vào phòng hoa chúc, theo thông lệ thì cô dâu đi trước, chú rễ nắm vạt áo cô dâu theo sau. Có người nói rằng lễ này bắt nguồn từ tích hoàng tử Thông cưới công chúa Theara vatey con gái Long Vương, trên đường về cung hoàng tử vốn sống trên cạn không đi được dưới nước nên Long Vương phải đi trước làm phép vẹt nước, trong cảnh âm u đó hoàng tử phải nắm lấy vạt áo của công chúa mà đi, vì vậy ngày nay mới có cảnh ông Maha đi trước dọn đường và chú rễ phải nắm lấy vạt áo cô dâu. Nhưng có người nói hình thức lễ này có nguồn gốc từ chế độ mẫu hệ thời xưa người phụ nữ làm chủ và luôn đi đầu trong mọi công việc.
 
- Lễ quét chiếu (Bôs kâs têl) : Khi cô dâu và chú rễ vào phòng liền có một người già - người được chọn này phải khỏe mạnh và đông con nhiều cháu - người này mang chiếu ra và hỏi “Có ai chuộc chiếu ?”, chú rễ sẽ bước ra nhận chiếu và trải ra mời cô dâu và ông Maha cùng ngồi, ông Maha nghiêm chỉnh dạy bảo vợ chồng phải cư xử tốt với nhau và phải chung thủy với nhau đến trọn đời, để cám ơn ông Maha cô dâu và chú rễ sẽ để lên chiếu một tặng vật gì đó, thường là tiền để tặng cho ông Maha và ông Maha sẽ nhận tặng vật sau khi cuốn chiếu (Sa kân têl).
 
- Lễ chung mùng (Đêk sân kât chơn mung) : Nhà gái chọn hai phụ nữ đứng tuổi có con cái đông đúc và vợ chồng hòa thuận để trải chiếu cho cô dâu chú rễ. Sau đó họ bày nhang đèn, hoa quả, bánh trái ngay trong phòng hoa chúc để cúng tổ tiên rồi một trong hai phụ nữ đem nước dừa cho cô dâu để mời chú rễ uống, còn người kia đưa cho chú rễ để mời cô dâu, sau khi uống xong nước dừa họ còn đem chuối đến để cô dâu và chú rễ cùng đút cho nhau ăn để gợi ý cho sự yêu thương và săn sóc lẫn nhau. Trước khi bước ra khỏi phòng hai người phụ nữ còn dặn dò cô dâu chú rễ những điều cần thiết cho đêm tân hôn và khuyên bảo hai người phải yêu thương đùm bọc với nhau đến trọn đời. Sau khi ăn uống xong cô dâu và chú rễ vào mùng, cô dâu vào trước, chú rễ vào sau; từ xưa đến nay vẫn còn giữ như thế. Ngày xưa lễ này còn có bốn phụ nữ đông con giàu kinh nghiệm trong cuộc sống nằm ở bốn góc mùng của cô dâu và chú rễ để kịp thời khuyên răn và dạy bảo cô dâu và chú rễ trong việc tạo dựng hạnh phúc lứa đôi, việc ngủ ngoài mùng này kéo dài ba đêm liền, nhưng tục lệ này đến nay không còn nữa.
 
Ba ngày sau đám cưới, đôi vợ chồng mới được người nhà hướng dẫn mang lễ vật trong đó có hoa cau đến chùa để cúng Phật và cúng dường các sư để cầu phúc. Sau đó hai người còn phải sắm sửa trầu cau bánh trái để đi thăm hỏi bà con thân tộc hai họ để làm quen và để tạo tình đoàn kết trong tộc họ.
 
5.4. Lễ cúng trăng : (Pithi Sâm peak preah khe).
 
Lễ cúng trăng là một lễ hội dân gian đã có từ lâu đời của người Khmer; hằng năm cứ đến ngày rằm tháng 10 âm lịch (ngày 15 tháng Kà đâk theo lịch Khmer) là ngày cuối cùng một chu kỳ của mặt trăng xoay quang trái đất cũng là thời điểm chấm dứt thời vụ của một năm, theo tín ngưỡng của người Khmer để cảm tạ thần mặt trăng để bảo hộ mùa màng, điều hòa thời tiết, đem lại ấm no cho mọi nhà, người Khmer đã tổ chức một lễ lớn gọi là lễ cúng trăng. Thức ăn chính trong lễ này là cớm dẹp, trước để dâng cúng sau đó đút cho trẻ em ăn tượng trưng cho sự no đủ do thực phẩm của mình làm ra, nên còn gọi là lễ đút cớm dẹp (Âk âm bok). Một vài nơi trong chiều ngày 15 có tổ chức đua ghe ngo (Um tuk ngua) thật tưng bừng náo nhiệt, lễ cúng trăng có nguồn gốc dân gian nên thường gọi là Pithi sâm peah preah khe, nhưng dần dần lễ này bị Phật giáo hóa - người ta tin rằng con thỏ trên cung trăng chính là tiền thân của đức Phật đã có lần dùng thân thể mình để cúng dường cho một vị thần Sakah chúa tể các vị thần tiên Tévada đang đội lốt người ăn xin, nên lễ cúng trăng còn được gọi là Bon sâm peah preah khe.
 
Lễ cúng trăng từ xưa đến nay đã được người Khmer tổ chức thống nhất vào đêm rằm tháng 10 âm lịch tại sân chùa, sân nhà hoặc một  nơi trống trãi nào đó vào lúc trăng lên. Từng gia đình có thể tổ chức riêng hoặc nhiều gia đình họp lại để cùng tổ chức, trước nhất người ta đào lổ cặm hai thanh tre cách nhau khoảng 3 mét và gát ngang một thanh tre khác nhưng hình dáng cái cổng thật đẹp và đặt dưới cổng một chiến bàn trên đó bày biện hoa trái bánh mức, nhang đèn để chuẩn bị cúng trăng , thức cúng quan trọng nhất của lễ này là cớm dẹp, còn các món khác thì tùy hoàn cảnh và điều kiện của mỗi gia đình có thể là khoai lang, khoai môn, khoai mỡ, dừa tươi, chuối, bánh kẹo... Cạnh dưới bàn người ta trải đệm hoặc chiếu cho cả nhà cùng ngồi ở đó để chuẩn bị cúng trăng.
 
Khi trăng lên đến đỉnh đầu là thời điểm kết thúc chu kỳ của mặt trăng trong một năm - ngày xưa để xác định thời điểm này, ở một số nơi người ta cắm một chiếc gậy gần địa điểm hành lễ, đợi đến khi bóng trăng không còn xê dịch dới bóng gậy mới bắt đầu hành lễ. Mỗi gia đình của một người lớn tuổi đại diện gia đình đốt nhang đèn, rót trà... chấp tay khấn vái, những người lại cũng chấp tay thầm khấn vái cảm tạ thần mặt trăng đã làm cho mưa thuận gió hòa, đem lại chén cơm cho gia đình họ và mọi người đồng ước ao rằng sang năm tới thần mặt trăng cũng bảo hộ được tốt lành để phum sóc yên vui, nhà nhà đầm ấm.
 
Khi cúng xong, người đại diện gia đình tiếp tục thực hiện một nghi thức quan trọng khác là đút cốm dẹp cho các trẻ em trong gia đình để tượng trưng đã nhận lãnh sự ban bố của thần Mặt trăng, đồng thời đánh dấu thành quả lao động của mỗi gia đình. Tiếp theo các loại bánh trái cúng trăng được dọn xuống và dưới ánh trăng vằng vặc mọi người trong gia đình cùng nhau ăn uống vui vẻ. Các em nhỏ thì tự do múa hát và nô đùa với các trò chơi dân gian (Lêng lòbeeng pro chia prây) đến thật khuya mới chấm dứt.
 
5.5. Tang ma (Bon Sâp).
 
Người Khmer chết thường được hỏa táng (Bon chheabanakeech), cũng có một số trường hựp chết vì dịch bệnh họ mới đem chôn (Bon banh choh sap) nghi lễ của mỗi đám tang thường được tiến hành qua nhiều giai đoạn, thường là họ mời một người thông hiểu về nghi lễ (achar yuki) đến để hướng dẫn những công việc cần phải làm.
 
Việc trước nhất là bỏ một đồng bạc (hoặc đồng chì hay đồng kẽm) vào miệng người chết, sau đó mới lau thi hài người chết bằng các thứ nước thơm, theo ngày xưa thì loại nước này phải được trộn vào nhiều loại hoa hoặc thứ hương liệu hay nhang thơm nào đó, xong họ mặc quần áo mới và quấn vải trắng khắp thân thể người chết (rum sâp), nếu muốn quàng xác lâu ngày, người ta còn quấn thêm một lớp vải dầu, sau khi quấn vải còn phải dùng dây vải (hoặc chỉ) buộc xác chết làm năm đoạn (chăm nâng bram brâkar), mỗi đoạn thắt một nút lớn, xong dùng chăn hoặc mềm đậy kín lại.
 
Trong thời gian chờ đợi liệm, phải để trên bụng người chết một nải chuối sống và trên ngực để hai lá trầu có ghim ba cây nhang, người Khmer tin rằng làm như thế thì linh hồn người chết sẽ mang đi làm lễ cúng tháp Phật (cholla mô ni chet đei). Trên đầu người chết luôn có một cái thúng đựng bốn lít  gạo (chơng thbơng), một cái nồi đất, bốn cái chén ăn cơm, bốn đôi đủa, một cây đèn, một đoạn vải trắng dài 2,2m, một trái dừa khô lột vỏ và một cái slachôm cắm trên thân cây chuối dài hơn một tấc, dưới chân người chết luôn có để một lư hương nhỏ để cắm nhang (chông thup).
 
Trong khi chờ đợi giờ tốt để liệm, tang chủ đến chùa để thỉnh sư đến để làm lễ cầu siêu cầu phước cho người chết (Ôy pôr tuk). Sau lễ cầu siêu, thi hài người chết mới được ông Achar và những người tẩn liệm đặt và quan tài. Về hình dáng bên ngoài của chiếc quan tài thì tùy thói quen và sở thích ở mỗi nơi, những đa số đều được khắc chạm hoa văn nỗi và sơn bằng nhiều màu sáng đẹp. Sau khi liệm người ta cũng bày trí trên nắp quan tài những vật cúng cũng giống như trên xác khi chưa liệm, trước đầu quan tài  là hai ngọn đèn cầy, dưới quan tài có một chậu nhỏ để đốt lửa ướp (đot phơng âb) cho ấm nhà cửa, phía trên đầu quan tài treo một ngọn cờ bằng vải trắng có hình cá sấu gọi là cờ hiệu của linh hồn. Thời gian quàn người chết lâu hay mau  tùy theo hoàn cảnh của tang chủ, thường thì một đến ba đêm, trong khoảng thời gian này chủ nhà thỉnh các sư ở chùa đến tụng kinh nhiều lần để cầu siêu cầu phước cho linh hồn người chết.
 
Suốt trong thời gian quàn linh cửu tại nhà để làm lễ cầu siêu, thân bằng quyến thuộc của người quá cố và các vị khách dự đám tang không được múa hát, ban nhạc cũng không được tấu một bản nhạc vui nào, chỉ có nhạc buồn và tiếng đọc kinh Thoma sângvêt mà thôi. Trong tang lễ thường có 5 achar điều hành nghi lễ, người lớn nhất achar yuki là vị thầy dẫn dắt linh hồn người chết, vị này biết tọa thiền và thuộc kinh Vibassana kamma than, bốn vị kia là achar phluk - bốn vị thầy phụ tá. Năm vị achar đều phải vắt trên vai một chiếc khăn trắng gọi là pea nea, mỗi chiếc khăn này dài đến 2 mét.
 
Đến giờ động quan luôn có sư sãi đến tụng kinh cầu siêu, kế đó 5 vị achar cũng tụng kinh và xoay đèn cây ba vòng quanh quan tài và sau đó quan tài mới được khiêng ra ngoài gọi là rum kơl sâp chênh. Trong thời gian trước chưa có xe, người ta phải sắp xếp hai chiếc kiệu để khiêng, một chiếc dành cho một nhà sư có tuổi đạo cao ngồi tụng kinh, bên trong bao giờ cũng có một bàn thờ nhỏ để ảnh và kinh Phật; kiệu thứ hai thường gọi là nhà vàng (kđa suang đâm kâl sấp) để chở quan tài, luôn có bốn nhà sư (hoặc bốn chú tiểu) đứng ở bốn góc quan tài. Trước khi di chuyển và trong thời gian di chuyển quan tài đến huyệt mộ hoặc nơi thiêu xác, ban nhạc luôn đánh trống khua chiêng vang dội khắp cả phố phường.
 
Khi đưa ma người ta thường cột một sợi dây bằng cỏ tranh (Shauv phlèng) từ kiệu nhà sư đến kiệu nhà vàng. Ông achar yuki mang cờ dẫn hồn và một chiếc đầu treo đi trước, kế đó là một phụ nữ - thường là con hoặc em người quá cố phải đội một chiếc thúng (chang thbâung), kế tiếp là bốn ông achar phụ tá. Tất cả đều phải niệm kinh theo lời hướng dẫn của vị achar yuki, theo sau là một nhóm phụ nữ mặc đồ trắng rải bông gòn. Phía sau quan tài là con cháu, quyến thuộc của người chết; trong lúc quan tài được khiêng đi các con cháu phải chạy lên phía trước nằm xuống đất ba lần gọi là lăn đường để tỏ ý nhớ thương người chết, không nở rời xa, nhưng những người khiêng quan tài vẫn tiếp tục bước qua. Khi gần đến huyệt mộ, quan tài được khiêng ba vòng mới được đặt xuống, đầu quan tài luôn xoay về hướng Đông.
 
Trong thời gian chuẩn bị chôn hoặc thiêu luôn được nhà sư tụng kinh cầu siêu và năm vị achar cũng vừa tụng kinh vừa đi quanh quan tài ba vòng. Sau đó quan tài được mở ra, vị achar yuki mới cắt dây buộc xác của người quá cố để con cháu nhìn mặt lần cuối trước khi chôn hoặc thiêu. Nếu chôn thì buổi lễ chấm dứt khi quan tài được đặt vào lòng đất. Nhưng nếu thiêu thì buổi lễ vẫn còn tiếp tục, mọi người trải chiếu phía trên gió để thúng chơng thbâung và cắm cờ dẫn hồn ở đó và ông achar yuki tiếp tục tụng kinh cầu cho linh hồn được sớm siêu sinh, các vị achar khác cùng đọc tụng kinh Thôma sâng vêk hoặc kinh Apithôm liên tục trong lúc thiêu.. các con cháu người chết đều tập trung đầy đủ nơi thiêu xác, khi lửa cháy cao gọi là ngọn lửa đầy sức mạnh của thanh niên (plơng pênh kâm loh) thì con cháu nào muốn báo hiếu cho người chết có thể nhờ sư xuống tóc vào lúc này. Theo tập quán của người Khmer, phụ nữ không được vào chùa tu nhưng có thể ở nhà cạo tóc mặc áo trắng tu khổ hạnh, còn nam giới nếu cạo tóc lúc này gọi là tu tại gia để báo hiếu. Trong thời gian thiêu xác, ở nhà luôn được tang chủ mời các nhà sư đến để tụng kinh hộ niệm để cầu phúc cho linh hồn người chết được siêu thăng.
 
Khi ngọn lửa thiêu xác đã tàn, ông achar yuki đánh ba tiếng cồng báo hiệu công việc đã hoàn mãn, con cháu dùng nước tưới vào đống tro cho nguội để làm lễ cúng thần đất, sau đó nhặt tro xương đặt vào chiếc mâm đã có trải sẵn khăn trắng và đội mâm đem về. Khi đến cổng nhà, con cháu phải làm lễ cúng tám phương, xong mới đem tro xương vào nhà mời sư làm lễ cầu siêu lần cuối trước khi rữa xương với nước dừa khô cho sạch, phơi thật khô và cho vào thố hoặc tháp nhỏ (kôđ) để thờ trong nhà hoặc gởi vào chùa.
 
5.6. Lễ cầu phước (BonĐa)
 
Lễ này được thực hiện đối với người lớn sau khi chết bảy ngày, nhưng đối với trẻ em sau khi chết đến chín ngày. Mục đích để cầu cho linh hồn được nhiều phúc lành duyên tốt.
Tối hôm đó, gia chủ vào chùa thỉnh một số sư sãi về nhà để tụng kinh làm lễ cầu siêu cho người chết và thuyết pháp cho con cháu nghe giáo lý của Phật. Ngày hôm sau họ đã chuẩn bị sẵn đồ đạc, vật dụng, thuốc men, thức ăn... (chia làm nhiều phần) để cúng dường các sư sãi. Sau khi tiếp nhận vật cúng dường các sư lại tiếp tục tụng kinh cầu siêu cầu phúc cho người quá cố. Theo tín ngưỡng của người Khmer thì linh hồn người chết phải được các sư cùng cầu nguyện mới sơm được siêu sinh. Vì vậy bất cứ một người nào đó sau khi chết bảy ngày (trẻ em chín ngày) đều được người nhà tổ chức lễ cầu siêu để nhờ vào uy lực của các nhà sư hộ niệm cho linh hồn được siêu thăng. Lễ này cũng thường được gọi là lễ làm phước.
 
5.7. Lễ giỗ (Bon khuop chhuan).
 
Người Khmer vốn không có lễ cúng giỗ hàng ăm cho người quá cố mà chỉ có tổ chức chung vào 3 ngày Sen Đônta trong năm để cầu siêu, cầu phúc  cho ông bà tổ tiên. Riêng người Khmer Nam bộ do ảnh hưởng của người Kinh  và người Hoa nên đã tổ chức cũng giỗ riêng những thân nhân đã chết, nhưng do tín ngưỡng của người Khmer nên lễ giỗ được tiến hành theo nghi thức phật giáo.
 
Người chết sau một trăm ngày được thân nhân gia đình tổ chức lễ giỗ đầu tiên (Bon Khuop 100 thgat) về hình thức bên ngoài cũng tương tự như một đám giỗ của người Kinh, cũng nhang đèn, hoa quả, đồ ăn thức uống, mâm bàn được được bày biện trước bàn thờ tổ tiên và con cháu tụ họp cúng bái. Sau đó ông achar sẽ sắp xếp cho thân nhân con cháu người quá cố dâng hương cầu nguyện và xin làm lễ mãn tang (Kan mahrô nawh tuk), ông achar vừa đọc kinh vừa cầm chén nước, một tay rẫy nước để rửa sạch tang chế của con cháu sau trăm ngày chịu tang đồng thời cầu phúc cho họ được yên ổn và mạnh khỏe.
 
Sau lễ giỗ một trăm ngày này, hàng năm cứ đến ngày chết của người quá cố thì thân nhân gia đình đều có tổ chức lễ giỗ thường niên, các lễ giỗ này cũng không khác lễ giỗ một trăm ngày bao nhiêu, chỉ không có lễ mãn tang và buổi tối có mời các sư đến tụng kinh cầu siêu cho người chết, ngày hôm sau chủ nhà lại tổ chức dâng cơm cúng dường. Các sư sau khi ăn cơm (tu sĩ phật giáo nam tông chỉ ăn cơm một lần trong giờ Ngọ) và nhậu các vật cúng dường của chủ nhà lại tiếp tục đọc kinh cầu siêu cho người chết và cầu phúc cho thân bằng quyến thuộc của chủ nhà.
 
Trong lễ giỗ của người Khmer, khách khứa vẫn được mời ăn uống, nhưng người Khmer không tổ chức ăn uống linh đình như người Kinh, lễ giỗ chỉ tập trung vào việc tụng kinh cầu cho linh hồn người chết được nhiều phúc đức, sớm được siêu thăng và cúng dường các sư để tạo thêm duyên lành.
 
5.8. Lễ chúc thọ (Bon châmrơn praal chôn).
 
Khi cha mẹ hoặc thầy tuổi già, để tỏ lòng hiếu thuận hoặc trả nghĩa, các con cháu hoặc học trò rủ nhau tổ chức lễ chúc thọ để cầu chúc cho cha mẹ hoặc thầy được hưởng nhiều phúc lộc và tăng thêm tuổi thọ.
 
Thời gian tổ chức thường là một đêm và một ngày. Trong đêm đầu, những người tổ chức mời các sư ở chùa đến để tụng kinh cầu an để cầu cho cha mẹ (hoặc thầy) thân tâm được an lạc, sức khỏe dồi dào, tránh mọi tật bệnh và các con các cháu đều hiếu thuận. Sau khi tụng kinh xong các sư thuyết pháp để hướng dẫn mong người làm lành lánh ác, luôn giữ lòng trong sạch để tạo ra các nhân tốt quả tốt, bổn phận làm con cháu, hoặc học trò phải luôn nhớ đến công ơn sâu dày của cha mẹ của các thầy đã tốn nhiều công sức nuôi dạy ta nên người...
 
Ngày hôm các con cháu hoặc học trò lại làm lễ cúng dường và dâng cơm cho các sư, để nhờ các sư hộ niệm thêm một lần nữa. Sau lễ cúng  dường, họ mời cha mẹ hoặc thầy ngồi trên bộ ván (hoặc ghế lớn), các con cháu, học trò đồng loạt quỳ xuống vừa bái lạy vừa chúc tụng cha mẹ, thầy giáo được trường thọ, đồng thời dâng lên các vị mâm lễ vật gồm quần áo, khăn nón, thuốc men, bánh trái, rượu trà... Các vị nhận lễ vât và cúng chúc phúc lại cho con cháu, học trò. Sau cùng là cả nhà cùng nhau tụng kinh  để cầu cho mọi người được bình yên an lạc.
 
5.9. Lễ dâng bông (Bon  phkar) :
 
Đối với các công trình công cộng như làm cầu, đường, mương rãnh, xây dựng trường học, tháp hội, hội trường... hoặc hình thành các tổ chức cứu tế xã hội để phục vụ cộng đồng, người Khmer có một hình thức lạc quyên rất đặc biệt, gọi là lễ dâng bông.
Lễ dâng bông thường được chùa đứng ra đảm trách, buổi tối các sư tụng kinh nguyện cầu bá tánh bình an, công việc thuận lợi; đồng bào trong phum sóc tề tựu về chùa tổ chức văn nghệ múa hát ca sang thật vui vẻ. Đến sáng hôm sau mới thật sự làm lễ dâng bông, người ta ghép nhánh cây giả làm hình cây thông, sau đó tuần tự từng người một bước lên cột tiền vào cành nhánh tượng trưng cho bông hoa. Cây thông tiền này được các sư làm lễ để chứng nhận sự đóng góp của mọi người và công việc sau cùng là số tiền được lấy ra để sử dụng theo các yêu cầu đã định.
 
Người Khmer rất tin tưởng vào luật nhân quả báo ứng và cũng rất tin tưởng vào các việc làm của nhà chùa, vì vậy các công trình công cộng được chùa đứng ra tổ chức đều được sự tham gia đóng góp rất tích cực của đồng bào Khmer. (Cái tên lễ dâng bông còn được một số nơi dùng để gọi lễ dâng cà sa - một nghi lễ chính thống của Phật giáo).
 
Ngoài ra người Khmer còn có những phong tục và lễ hội khác như : Lễ đua ghe ngo (Um tuk ngua), lễ cúng sân lúa (Pithi  sance lean), lễ gọi hồn lúa (Pithi hao prô bing srâu) lễ cắt tóc trả ơn mụ (Pithi kat sàk bâng kâk ch' mâp), lễ giáp tuổi (Pithi kát chup), lễ lên nhà mới (Pithi lang phteah thmei), lễ cúng ông Tà (Pithi đâmlơng neakta), lễ xúc hồn (Pithi cheenhohát prôlưng), lễ nhập thần (Pithi đâmlơng arak) ... và các lễ của Phật giáo nam tông như : Lễ Phật đản (Bon Pisakh Bânchea), lễ ban hành Phật pháp (Bon Meakh Bânchea), lễ nhập hạ (Bon châul vâssa), lễ xuất hạ (Bon chênh vâssa) , lễ dâng y (Kathin năk tean), lễ kết giới (Bon bânchol seima), lễ hội linh (Bon pchum bôn) ... Mỗi phong tục hoặc lễ hội đều có ý nghĩa đặc biệt.
 
¯                ¯
¯
 
Nền văn hóa của người Khmer Nam bộ đã được hình thành từ lâu đời lại do sự kết tinh và thừa kế của nhiều nền văn hóa khác nhau nên nó vừa đa dạng vừa phong phú, qua mỗi thời kỳ lại có sự biến hóa và phát triển để phù hợp với từng hoàn cảnh lịch sử khác nhau. Người Khmer Nam bộ nhất là ở vùng đồng bằng sông Cửu Long có một số lượng khá đông vì vậy việc phát triển văn hóa của người Khmer ở đây cũng góp phần khá lớn trong sự phát triển văn hóa chung ở Nam bộ.
 
Cuộc sống của người Khmer vốn đã bình dị lại thích sống gần thiên nhiên nên đa số các loại hình văn hóa nghệ thuật hầu như đều gắn với cuộc sống đời thường của họ. Đa số người Khmer đều biết múa hát, sinh hoạt trò chơi và tự đương đác làm những đồ thủ công gia dụng. Người Khmer Nam bộ còn khéo léo tiếp thu tinh hoa của các nền văn hóa khác trong cuộc sống cộng cư lâu ngày nên tuy có cùng gốc gác với người Kampuchea nhưng diện mạo của nền văn hóa này lại mang một sắc thái riêng. Đó là nền văn hóa biết chọn lọc trong thừa kế, ít bảo thủ và từng bước có sáng tạo và phát triển nhanh nếu không nói là nhanh nhất so với các nền văn hóa của các dân tộc ít người ở Việt Nam... họ luôn cố vươn lên cho kịp với sự phát triển chung, đồng thời các dân tộc anh em như người Kinh người Hoa người Chăm lúc nào cũng cố tạo điều kiện thuận lợi để giúp người Khmer phát huy những gì cần phát huy trong văn hóa truyền thống, lúc nào cũng giúp sức làm cho văn hóa người Khmer phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa để được hưởng mọi quyền lợi kinh tế, chính trị như các tộc người khác. Tuy nhiên trong sự hòa hợp để phát triển chung, người Khmer vẫn phát huy được bản sắc văn hóa của mình như những bông hoa tươi sáng để điểm tô thêm vẻ đẹp của vườn hoa văn hóa Việt Nam.
 
Về văn hóa vật thể như nhà ở, nơi ở, trang phục, ăn uống, kiến trúc, hóa trang... của người Khmer trong những năm gần đây quả thật có sự thay đổi khá lớn, nhất là về nhà ở và ăn mặc thì đa số cũng giống như người Kinh. Đến nay trong nhiều phum sóc người Khmer cũng còn có nhiều nhà lá, những người sống cặp lộ,ven sông đã có nhiều căn hộ được xây bằng gạch ngói, nhà sàn, nhà cao cẳng đã bớt dần có nơi còn không thấy để thay bằng những căn nhà được xây dựng trên nền đất. Nhà lá hay nhà gạch đều có sự thay đổi rất lớn, đặc biệt bộ phận nóc không còn nhọn như ngày xưa, mỗi căn hộ đều được xây dựng theo chữ Đinh hoặc trước sau đâu mái, cửa nẻo thì làm chắc chắn chớ không bỏ ngỏ như ngày xưa... có một số còn xây cất theo các kiểu Âu Mỹ. Nhưng cho dù các loại nhà cửa có thay đổi bề ngoài theo trào lưu tiến hóa thì sự bày trí bên trong vẫn giữ được dáng dấp cổ xưa, từ cái bàn thờ Phật đến cái bộ “đi văng”, cái tủ chưng ly, chưng gối, ghế bàn tiếp khách và cả những chiếc chỏng tre trong nhà đều được đặt theo những vị trí cố định.
 
Về trang phục cũng thế, đã có sự thay đổi lớn lao, nhất là những thanh niên nam nữ, đa số đều dùng Âu phục và các thứ giày vớ, mũ nón cũng chẳng khác người Kinh. Nhưng đến những ngày lễ hội thì không những người cao tuổi mà thanh niên nam nữ đều mặc những y phục truyền thống của mình. Kể cả những khi trình diễn văn nghệ cũng thấy trên sàn diễn xuất hiện những bộ Săm pốt sắc màu rực rỡ.
 
Thức ăn thức uống, cả các cách ăn uống và tổ chức đám tiệc trong giai đoạn hiện nay, quả thật người Khmer Nam bộ cũng đã tiến một bước khá dài, nhiều gia đình người Khmer đã sử dụng nhiều món ăn thuần túy của người Kinh người Hoa hoặc những món ăn của người nước ngoài. Các đám tiệc cũng được tổ chức linh đình đôi khi còn có cả trống nhạc kèn tây hoặc thết tiệc ở nhà hàng, tiệm quán... tuy nhiên bên cạnh đó lúc nào cũng có sự hiện diện của các món ăn truyền thống của người Khmer, có nhiều món lại được phổ biến sang các dân tộc khác và rất được ưa chuộng như món bún nước lèo, vịt nấu xim lo, mắm ruốc... rất nỗi tiếng đã được nhiều người hoan nghênh.
 
Về văn hóa tâm linh, tôn giáo và tín ngưỡng là những món ăn tinh thần rất quan trọng đối với người Khmer Nam bộ, ở đây Phật giáo đã có một vai trò rất lớn gần như chi phối mọi sinh hoạt của con người từ thành thị đến nông thôn, từ nhiều thế kỷ qua Phật giáo Nam tông đã được người Khmer xem như là quốc giáo, hình dáng đức Phật luôn là chổ dựa tinh thần vững chắc nhất đã tồn tại trong ký ức của người Khmer Nam bộ từ lâu đời, vì vậy các phong tục tập quán lễ hội dân gian cho đến các sinh hoạt trong đời sống xã hội đều có ít nhiều mang màu sắc Phật giáo.
 
Trong nhiều năm qua chùa được xem như là mái nhà chung của mọi gia đình, là nơi sinh hoạt lý tưởng nhất của mọi người trong nhiều phương diện, chùa không những là nơi tôn nghiêm nơi truyền bá giáo lý của Phật đà mà còn là địa điểm giáo dục văn hóa, đào tạo trí thức cho cộng đồng người Khmer. Thanh niên trước tuổi trưởng thành đa số đều phải xuất gia vào chùa một thời gian để hấp thu văn hóa và trau dồi đạo đức. Nhưng cũng vì cái vị trí gần như độc tôn đó nên có nhiều bà con trong phum sóc lại có ý nghĩ  “tất cả vàng bạc của cải  đều có thể bị mất, chỉ có làm phước bằng cách dâng cúng vào chùa thì cái phước ấy không ai cướp được” và từ đó lại xuất hiện nhiều hình thức dâng cúng vào chùa để tích trữ lại đời sau, có những nông dân nghèo lao động rất vất vã mới tìm được cái ăn cái mặc cũng cố gắng dành dụm chút ít lúa gạo, bạc tiền để tham gia vào việc làm phước để mong cầu một cuộc sống an nhàn ở đời hiện tại và cả kiếp lai sinh.
 
Nhưng ngày nay do trình độ dân trí càng ngày càng phát triển, sự hiểu biết của con người càng ngày càng thực tế hơn, nhất là các truyền thống tích cực của Phật giáo đã được người Khmer nhận thức rõ hơn; vì vậy đa số các hình thức làm phước hiện nay đã được nhà chùa hướng dẫn bằng những việc làm lợi ích xã hội, như xây dựng cầu, đường, trường học, bệnh xá... và các công trình phúc lợi khác. Nhiều địa phương đã có trường học riêng, trẻ em nam nữ đều được học, những bà con ở các vùng sâu vùng xa chưa nhận thức được tầm quan trọng của giáo dục, chưa tự nguyện đưa con em của mình đến trường thì đã có các tổ chức quần chúng như Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ... vận động và tạo mọi điều kiện để các con em người Khmer nghèo được đến trường học tập. Số lượng thanh niên xuất gia vào chùa càng ngày càng ít đi và nhất là bà con người Khmer cũng dần dần nhận ra người không xuất gia cũng là người đạo đức nếu được giáo dục đầy đủ và sinh sống trong một môi trường tốt. Tuy nhiên không vì thế mà vai trò của Phật giáo bị nhẹ đi, trên thực tế Phật giáo đã được người Khmer Nam bộ phát huy tốt hơn nữa về phương diện xã hội học.
 
Riêng về các tín ngưỡng dân gian như tín ngưỡng Arăk, tín ngưỡng Neakta ... đây là những tín ngưỡng lâu đời mang đậm màu sắc mê tín và đã có trước khi người Khmer tiếp nhận tư tưởng Phật giáo, chúng đã tạo thành những ấn tượng khá sâu trong cuộc sống của bà con nông dân Khmer trong nhiều thế kỷ qua. Tuy nhiên trong hiện tại như trên đã nói một phần bị Phật giáo hóa, một phần do trình độ nhận thức của con người ngày nay thực tế hơn cho nên ArăkNeakta đối với bà con người Khmer Nam bộ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa này chỉ là những hình bóng mờ nhạt của quá khứ, chỉ có một số người ở các phum sóc xa xôi còn thờ cúng nhưng số lượng cũng thưa dần, thậm chí ở một số địa phương đã không còn tồn tại các loại hình tín ngưỡng này.. tuy nhiên cũng nhờ vào các tín ngưỡng ArăkNeakta, ta đã xác nhận đây là những đơn vị thờ cúng của từng cụm dân cư riêng biệt, không có sự thống nhất về đẳng cấp Neakta như một hệ thống tổ chức của một triều đình phong kiến như ở Kampuchea.
 
Người Khmer Nam bộ ngoài những sinh hoạt có tính chất tôn giáo, tín ngưỡng còn có những sinh hoạt về văn học nghệ thuật rất đa dạng và phong phú, nhất là văn học dân gian đã có một kho tàng lớn ở Nam bộ, ở đây có truyền cổ tích, truyền thần thoại, truyền ngụ ngôn, truyện cười, ca dao tục ngữ, nói lái, câu đố... chỉ có một số được ghi chép trên lá thốt nốt, còn phần lớn là do truyền miệng dân gian và điêu khắc hội họa cũng chiếm một phần trong việc gìn giữ và lưu truyền từ đời này sang đời khác. Hiện nay nghề in đã phát triển, một số truyện cổ tích, thần thoại, ngụ ngôn... đã được in ra nhưng số lượng vẫn còn hạn chế. Xét thấy cũng nên có một kế hoạch sưu tầm, tập hợp và phân loại những câu chuyện kể dân gian bằng văn xuôi lẫn văn vần của người Khmer để góp phần phát huy nền văn học dân gian Nam bộ.
 
Nghệ thuật của người Khmer Nam bộ rất phong  phú và đa dạng, bao gồm các loại âm nhạc, máu, sân khấu, kiến trúc, hội họa... mỗi bộ môn nghệ thuật là bao gồm một số loại hình nghệ thuật và thường có liên quan với nhau, thí dụ như trong âm nhạc có nhạc cổ, nhạc dân gian, các loại nhạc cụ... thì đó đều là những bô phân trên các sân khấu Rôbam, Yukê; hội họa luôn có mặt trong kiến trúc, còn dùng để trang trí phông màu tranh ảnh...; múa không những được áp dụng phổ biến trong các sinh hoạt dân gian lại còn là các yếu tố quan trọng trong các vở trống cổ... Mỗi bộ môn nghệ thuật đều có giá trị nhất định và xu hướng phát triển riêng.
 
 
Các điệu nhạc cổ Sâm pông, Phat cheay, alê, Khan bram, Chôl chhung ..., lúc đàu chỉ được dùng trong các lễ nghi nghiêm túc dần dần được áp dụng trong vở tuồng cổ của sân khấu Rôbam nay đã mở rộng ra trên sân khấu Yukê, trong tương lai các điệu nhạc cổ này có lẽ sẽ mở rông thêm phạm vi phục vụ trong các sinh hoạt lễ hội dân gian khác. Sự phát triển này cũng gần như sự phát triển các bài ca cổ trong đàn ca tài tử của người Kinh.
 
Song song tồn tại và phát triển với nhạc cổ là nhạc dân gian, nhưng nhạc dân gian lại được phổ biến sâu rộng trong quần chúng hơn, nó được hình thành và biến đổi qua nhiều thời kỳ lịch sử khác nhau và đã được sử dụng trong hầu hết các sinh hoạt của đồng bào Khmer. Chỉ riêng nhạc dân gian Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long đã có đến hàng trăm làn điệu khác nhau, các làn điệu này lại được thể hiện qua các hình thức ca, ngâm, tụng, đọc, xướng họa, đối đáp... và bao gồm nhiều loại dân ca. nhất là loại Ayai là một thể loại hát đối đáp huê tình đã được các giới trong cộng đồng người Khmer ưu thích, họ đã thi nhau sáng tạo và tính đến nay đã có 13 làn điệu khác nhau, nhạc Khmer có một sức thẩm thấu rất lớn và có nhiều tác dụng trong cuộc sống của người Khmer Nam bộ, vì vậy cũng nên có một công trình nghiên cứu về loại hình nghệ thuật này.
 
Về nhạc cụ thì người Khmer Nam bộ cũng nhạc cụ riêng, tiêu biểu nhất là dàn nhạc gõ (Phlêng pinpeat) thường được gọi nôm na là dàn nhạc ngũ âm từ nhiều năm qua đã được sử dụng trong nhạc lễ ở chùa, chỉ có những lễ lớn Phật giáo hoặc các đám làm phước, cầu siêu, cầu an quan trọng thì mới được sử dụng, nhưng trong những năm gần đây dàn nhạc gõ  đã được mở rộng thêm phạm vi phục vụ, do những yêu cầu khách quan dàn nhạc gõ đã có mặt trong các lễ tục truyền thống, lễ hội dân gian hoặc các cuộc hội họp quan trọng khác. Tuy nhiên trên thực tế một số chùa Khmer ở Nam bộ cũng không có dàn nhạc gõ, không phải vì dàn nhạc này đắc tiền không mua được mà chính vì thợ sản xuất mỗi ngày một ít và người sử dụng nhạc cụ cũng ít dần, thậm chí có nhiều nơi không có. Thiển nghĩ nên sớm có kế hoạch đào tạo thợ làm nhạc cụ và nhạc công để bổ sung vào những chỗ hẫng hụt này.
 
Riêng dàn nhạc nhẹ còn gọi là dàn nhạc dây (Phlêng khsè) từ trước đến nay đã được sử dụng rất phổ thông trong các lễ hội, đám tiệc lớn nhỏ của người Khmer, gần đây lại được bổ sung thêm một số nhạc cụ phương Tây như đàn guitare, accordéon, trống jazz... sự tăng cường này trước mắt đã làm phong phú và tăng thêm sự hấp dẫn của dàn nhạc nhẹ, nhưng một mặt nào đó sẽ làm lu mờ một só nhạc cụ truyền thống như đàn cò, đàn gáo, đàn bán nguyệt... Vì vậy, việc có nên tăng cường các nhạc cụ phương Tây vào dàn nhạc nhẹ hay không có lẻ phải chờ ý kiến của các nhà chuyên môn.
 
Múa là một loại hình nghệ thuật đã được phổ biến rộng rãi nhất trong cộng đồng người Khmer ở Nam bộ, ở đây từ bao đời nay múa đã được sáng tạo và tích tụ thành một kho múa với nhiều thể điệu rất phong phú và hấp dẫn. Đa số người Khmer đều biết múa, cứ có các lễ hội, đám tiệc, liên hoan.... đều có tổ chức múa, múa cũng là một bô phân quan trọng trên các sân khấu, riêng sân khấu Rôbam múa còn được xem là một thứ ngôn ngữ để biểu đạt nghệ thuật.
 
Ba điệu múa dân gian tiêu biểu nhất là Râm vông (còn gọi là Lam thôn), Lâm lêvSarvan vốn có nguồn gốc từ Thái Lan, Lào và Indonécia tới nhưng từ lâu đã hòa nhập vào cuộc sống của cộng đồng người Khmer như một thứ máu thịt không thể tách rời. Tuy nhiên cũng có một số điệu múa càng ngày càng ít thấy như điệu múa con sáo (Sarikakev) phải có nghệ thuật cao mới sử dụng được; múa trống chhayam thì vừa phải khéo vừa phải có thể lực mạnh mới múa được; múa đám cưới, đám ma, múa cúng Arăk, múa cầu Neakta, tất cả đều có những nghi thức tín ngưỡng riêng biệt, ngày nay cũng đang hạn chế dần.
 
Chỉ riêng những điệu múa chuyên nghiệp trên sân khấu YukêRôbam đã có khuôn khổ nhất định trong từng vai diễn từ trước đến nay và hôm nay lại được canh tân để phù hợp với từng vai trong vỡ diễn. Múa chuyên nghiệp ở đây không còn là vai múa cung đình của những ngày xưa cũ mà nó đã thực sự được tích hợp vào sân khấu của người Khmer Nam bộ. Ngoài ra có một số điệu múa chuyên nghiệp như múa chằn, múa khỉ đang từng bước được dan gian hóa và ngược lại là trên sân khấu Yukê cũng đang tiếp nhận một số điệu múa phương Tây.
 
Sân khấu Rôbam hiện nay là loại sân khấu cổ truyền duy nhất của người Khmer Nam bộ, loại hình sân khấu này có nguồn gốc xa xưa từ cung đình nhưng dần dần bị dân gian hóa để trở thành một nghệ thuật của toàn dân, tuy có sinh khí và phổ cập hóa hơn ngày xưa nhưng sự điêu luyện về chuyên môn lại có đôi phần bị hạn chế do những nghệ sĩ thủ vai ít được huấn luyện, đa số họ chỉ là những nghệ sĩ nghiệp dư sau mùa lúa chín đã tập họp lại để biểu diễn giúp vui. Hiện nay ở các tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long chỉ còn một ít đoàn hát Rôbam do một số nghệ sĩ yêu nghề cố gắng duy trì để bảo trì loại hình nghệ thuật truyền thống này, các diễn viên nòng cốt đa số đã lớn tuổi điều kiện hoạt động lại không đầy đủ, các đoàn đa số đều thiếu trước hụt sau, về phía khán giả chỉ còn những người lớn tuổi yêu thích, nói chung bị hạn chế nhiều mặt, nếu không sớm có kế hoạch nâng đỡ và bảo tồn thì loại hình nghệ thuật cổ này sẽ dần bị mai một.
 
Riêng về sân khấu Yukê vốn là một sản phẩm nghệ thuật do chính người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long sáng tạo, nó không cổ kính như sân khấu Rôbam mà lại trẻ trung và hợp thời hơn nên được sự ủng hộ của mọi người nhất là giới trẻ, vì vậy sự hoạt động của các đoàn Yukê tương đối dễ dàng hơn. Nhưng sân khấu Yukê không phải là không có khó khăn, nhất là về số lượng đoàn hát thì càng ngày càng nhiều chỉ riêng các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long đã có hơn trăm đoàn hát, nhưng về diễn viên chuyên nghiêp lại có giới hạn, vì vậy không sao tránh được chuyện “lắp vá” tạm thời, do đó vấn đề nghệ thuật khó đáp ứng được các nhu cầu của người xem, về tuồng tích tuy cũng có một số ít vỡ diễn mới nhưng đa số vẫn là các vỡ cũ chưa thể đáp ứng theo các yêu cầu phục vụ. Thiết nghĩ, để vừa phát huy nghệ thuật của sân khấu Yukê vừa chuyển tải được những thông tin, những tư tưởng lớn của thời đại xây dựng xã hội chủ nghĩa, ta cũng nên có kế hoạch đào tạo và bồi dưỡng diễn viên, soạn giả, chỉnh lý hoặc thay đổi một số vỡ diễn không còn phù hợp và giúp đỡ cơ sở vật chất cho những đoàn hát yukê đang được phép lưu diễn.
 
Một nghệ thuật đáng chú khác của người Khmer Nam bô là kiến trúc, tiêu biểu ở đây là kiến trúc chùa, bao gồm cả kỹ thuật xây dựng, điêu khắc, hội họa và trang trí hoa văn. Để thực hiện một công trình kiến trúc chùa phải có một đôi ngũ xây dựng bao gồm nhiều bô phân kỹ thuật và mỹ thuật và phải có một thời gian dài để xây dựng, chưa kể đến chi phí cũng khá lớn, cho nên đa số các ngôi chùa Khmer phải trải qua nhiều công đoạn mới hoàn thành, một số ngôi xây dựng dở dang vì thiếu điều kiện phải tạm dừng lại. Thợ xây dựng và nghệ nhân kiến trúc đều xuất thân ở chùa, vì vậy khi xây dựng chùa nhất thiết đều phải tuân thủ ý kiến của sư trụ trì, mọi chi tiết về kỹ thuật và mỹ thuật đều phải theo một khuôn khổ nhất định, cũng bởi ký do này các ngôi chùa Khmer ở Nam bộ từ trước đến nay về hình dáng thường tương tự với nhau. Đội ngũ xây dựng truyền thống kể cả những nghệ nhân điêu khắc, hội hoạ... chỉ có một số ít có qua trường lớp đào tạo, còn đa số đều là thợ gia truyền hoặc tự có năng khiếu, do vậy đội ngũ này càng ngày càng ít, người ta phải thay vào đó  lớp thợ mới hoặc những kỹ thuật gia của các loại hình kiến trúc khác nên đôi khi kết quả kiến trúc không đáp ứng theo những yêu cầu ban đầu. Tuy có nhiều mặt hạn chế như thế, nhưng với một quyết tâm cao và một lòng tin vững chắc, người Khmer Nam bộ đã xây dựng được hằng loạt công trình kiến trúc đồ sộ, đó là những ngôi chùa lớn được phân bổ tọa lạc gần như đều khắp ở các tỉnh thuộc vùng đồng  bằng sông Cửu Long.
 
Trong nhiều thế kỷ qua, Phật giáo được xem như là một tôn giáo chính thống của người Khmer, mọi hình thức sinh hoạt văn hóa - xã hội từ các phum sóc cho đến thị thành đa số đều có liên quan đến chùa, cho nên các phong tục tập quán và lễ hội dân gian của người Khmer cũng đều có yếu tố Phật giáo; trong cuộc sống cộng cư ở Nam bộ suốt một thời gian dài người Khmer cũng đã tiếp nhận ít nhiều về tư tưởng Hán Nho từ người Hoa người Việt; và trong hậu bán thế kỷ XIX người Khmer lại có dịp tiếp cận với văn minh phương Tây, nhất là những năm gần đây đã bước vào ngưỡng cửa của thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa - thời kỳ của sự đổi mới; vì vậy các phong tục tập quán và lễ hội truyền thống của người Khmer cũng được thay đổi cho phù hợp với xã hội của từng thời điểm, về hình thức thì càng ngày càng đơn giản, về nội dung cũng có đổi mới dần, nhưng có một điều bất biến là các loại hình văn hóa này luôn là loại văn hóa dân gian gắn liền với cuộc sống - với sinh hoạt đời thường của người Khmer và đó mới chính là nét đẹp truyền thống cần phải giữ gìn và phát huy để làm phong phú thêm nền văn hóa của các dân tộc.
 
 
Bài viết liên quan:

Đánh giá của Bạn về bài viết này?

Đăng nhận xét

Mới hơn Cũ hơn

đăng ký nhận tin mới