PHÙ ĐỔNG THIÊN VƯƠNG - DI TÍCH VÀ HUYỀN THOẠI

                               

Phù Đổng Thiên Vương Di tích & huyền thoại

Trần Thị Vân Anh
Trưởng phòng VHTT
TDTT huyện Gia Lâm

Bạn có thể thăm viếng tượng đài "Thánh Gióng" ở đâu đó, nhưng xin chớ quên
nơi chôn nhau cắt rốn của Người. Gióng - Phù Đổng tên của người anh hùng cũng
chính là tên của một địa danh có thật.
Phù Đổng, đó là một vùng đất nằm kề bên bờ tả ngạn sông Đuống, trước đây
thuộc phủ Tiên Du tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội, cách trung tâm
Hồ Gươm hơn 10 km theo đường chim bay.



Theo truyền thuyết, Phù Đổng là nơi sinh ra Thánh Gióng. Mẹ Gióng ướm bước
chân thần ở vườn cà mà sinh ra. Thời Hùng Vương thứ sáu, giặc Ân xâm lược nước
ta, Gióng lên ba, thoắt nói, thoắt cười, thưa mẹ đòi sứ giả vào, xin nhà Vua sắm cho
ngựa sắt, roi sắt, giáp sắt. Vua Hùng cho người mang đến.
Sau "Bảy nong cơm, ba nong cà. Uống một hơi nước cạn đà khúc sông". Gióng
vươn vai cao lớn khác thường, mặc giáp sắt, cầm roi sắt, lên ngựa sắt. Ngựa sắt phun
lửa xông vào quân giặc. Trận chiến đấu ác liệt, roi sắt gẫy, Gióng nhổ cả bụi tre đằng

ngà đánh giặc. Giặc tan, Gióng cưỡi ngựa lên núi Sóc Sơn bái vọng Mẹ rồi bay về
trời.
Theo tục truyền, cứ đến ngày 9/4 âm lịch hàng năm, dân làng lại tổ chức lễ hội
Gióng, một sinh hoạt văn hóa dân gian đặc sắc. Qua các diễn xuất trong hội lễ, người
ta có thể liên tưởng những bài học về chiến tranh nhân dân, suy ngẫm cách nhìn kẻ
thù, hiểu thêm về thẩm mỹ truyền thống, cũng như đạo lý ứng xử con người trong
tiến trình lịch sử...
Có rất nhiều người viết về Phù Đổng Thiên Vương, về cả thần tích, di tích và lễ
hội. Song, rõ ràng rằng từ xưa đến nay chưa có một ai để tâm giải mã những hiện
tượng văn hóa liên quan đến Đức Thánh Phù Đổng. Chúng ta hiểu rằng Đức Thánh
Phù Đổng Thiên Vương là một trong "Tứ bất tử". Trong "Tứ bất tử" này của người
Việt thì rõ ràng chỉ chấp nhận Đức Thánh Phù Đổng và Tản Viên Sơn thánh là tư
cách của anh hùng văn hóa đích thực còn Chử Đồng Tử và Mẫu Liễu Hạnh chỉ là
những vị thần về sau mang yếu tố của các thần linh không phải dạng anh hùng văn
hóa vì Chử Đồng Tử và Mẫu Liễu Hạnh là những vị thần đã được quan tâm tới và đề
cao ở thời kỳ sử đã thành văn. Đức thánh Phù Đổng Thiên Vương và Tản viên sơn
thánh là những người được nảy sinh từ thời cổ đại, tiền sử.
Ở đây chúng ta hiểu rằng trong quá trình phát triển của cư dân Việt, các vị anh
hùng văn hóa thường được gắn với các sự kiện rất lớn của người Việt. Nếu như chúng
ta biết rằng Đức thánh Tản Viên ở tận vùng núi cao xa, Ngài là bạn thân của Thủy
Tinh nhưng ở đấy "Sơn thủy hữu tình". Đến khi người Việt lùi xuống phía dưới, biết
đắp đê ngăn lụt thì lúc đó Tản Viên mới trở thành có tính chất là kẻ thù đối với Thủy
Tinh mà biểu hiện bằng sự kiện lấy con gái vua Hùng. Đó là một hiện tượng sử hóa
các anh hùng văn hóa. Nhưng khi đã xuống đến châu thổ cao giáp với châu thổ thấp
thì người Việt lúc đó chủ yếu sử dụng công cụ bằng đồ đồng, đồ đá. Nhưng vì công
cụ này không có cách nào mà khai phá được những châu thổ thấp và đến lúc này
người ta phát hiện ra đồ sắt và chỉ có đồ sắt mới có khả năng chặt được những cây lớn
và khai phá những rừng rậm ở châu thổ thấp, đầm lầy mà thôi. Chính do phát hiện ra
đồ sắt và thấy sức mạnh của sắt vô cùng to lớn như thế nên sức mạnh này được hội tụ
và nhân cách hóa để trở thành một vị thần vĩ đại. Vị thần vĩ đại ấy đã góp phần tạo
nên sức mạnh, đại diện cho sức mạnh của dân tộc khai phá châu thổ thấp. Và, người
Việt chỉ có thể trở thành một quốc gia, một dân tộc đầy đủ khi đã khai phá châu thổ
Bắc Bộ. Cũng chính từ vùng thấp này, người Việt mới tạo đà để phát triển, để ra đi
tiến tới một đất nước to lớn, thống nhất của cộng đồng như ngày nay. Như vậy chúng
ta hiểu rằng Đức thánh Phù Đổng Thiên Vương đã đánh dấu một bước phát triển đặc
biệt của dân tộc chúng ta ở thời kỳ sơ cử, tiền sử. Và, chỉ có từ Ngài mà chúng ta mới
phát triển lên được, đặc biệt là phát triển nông nghiệp. Ở đây với công cụ đồ sắt được
quy tụ vào cái gậy của Ngài, khi Ngài cầm gậy đi đánh giặc. Đó là một cuộc trường
chinh về sản xuất, một cuộc trường chinh với sức mạnh của đồ sắt buổi đầu khai phá
châu thổ Bắc Bộ. Đây là một vị trí tiếp giáp giữa châu thổ cao với châu thổ thấp để
nói lên bước phát triển của dân tộc...
Ở đây chúng ta còn thấy một đặc điểm khác nữa là trong lễ hội có rất nhiều tục
lệ đi theo nhưng đáng quan tâm là ở chỗ con ngựa trắng và ông hiệu cờ là quan trọng
nhất. Khi chúng ta thấy có 28 thiếu nữ tượng trưng cho tướng giặc, thực chất tượng
trưng cho tinh tú. Mà sử dụng những cô bé còn ngây thơ là biểu hiện hồn nhiên như
bầu trời. Người Việt lấy thờ Mẫu làm trọng thì sự ngây thơ ấy cũng xuất phát từ nữ
giới. Đó là một ý kiến. Song, ý kiến này đáng được tin theo, ý kiến khác là người ta đi
rước vào giữa trưa và rước ngựa trắng đi và chỉ ngựa trắng thôi. Ngựa trắng là "Bạch
Mã" tượng trưng cho sức mạnh linh khí của trời và tượng trưng cho phương Đông,
cho mặt trời, cho nên khi rước, người ta cầu cho có được sinh khí tràn về cho trần
gian, cho muôn loài sinh sôi. Và, trong tục lệ của người dân ở đây, nhiều người tin
rằng khi rước ngựa trắng ra thì trời bao giờ cũng nổi gió. Có nghĩa là trời ứng vận vào
người "Thiên nhân hợp khí" mà tạo cho khí thiêng của trời tràn về trần gian. Và, khi
rước về thì sinh khí đó nó hội tụ vào lá cờ đỏ. Lá cờ đỏ là của ông hiệu cờ. Màu đỏ là
màu của sinh khí, màu của sức sống. Màu đỏ gắn với thần linh. Cái màu ấy có tràn về
thì muôn loài mới phát sinh phát triển được. Cho nên vai trò của ông hiệu cờ là rất
quan trọng. Múa cờ đỏ là nói lên cái vận động sinh khí của bầu trời. Trong vận động
sinh khí ấy, ông hiệu cờ đạp lên ba cái bát - tượng trưng cho "Tam sơn". Thông qua
"Tam sơn" mà sinh khí tràn xuống đất và nước. Chỉ có thể thì sức sống mới được phát
triển và cái ước vọng qua ngày hội mới trở thành ước vọng được mùa, ước vọng của
phồn thực, ước vọng của sự no đủ. Và, chính qua nhận thức của người xưa đối với
Phù Đổng Thiên Vương - một uy lực siêu phàm như vậy thì người xưa đã quan tâm
đến nơi thờ của Ngài.
Nơi thờ là đền Phù Đổng Thiên Vương. Ngôi đền này còn để lại rất nhiều dấu
ấn mà chúng ta cần phải trân trọng. Khi nghệ thuật của người Việt trở lại với dân gian
tức là vào thế kỷ XVI, những viên gạch rồng và hoa thể hiện rất rõ rệt ở đền Phù
Đổng.
Chúng ta hãy điểm qua những di tích ở Phù Đổng có liên quan đến truyền
thuyết Thánh Gióng.
Đền Thượng: Đền thờ Thánh Gióng. Theo truyền thuyết, đền đã có từ thời
Hùng Vương và được dựng trên nền nhà cũ của mẹ Gióng. Đến cuối thế kỷ XI, Lý
Thái Tổ cho tu bổ thêm và ra lệnh tổ chức hội Gióng. Đền sát đê, được bố cục theo
hình chữ "Công", quy mô rộng rãi.
Trước sân, ngay sát chân đê có ao rộng, có tên ao Rối, nơi hàng năm có tổ chức
múa rối nước vào ngày hội. Trong ao, dưới bóng cây đa cổ thụ cành lá sum suê là
ngôi thủy đình xinh xắn. Thủy đình được dựng theo kiểu "mái chồng" từ thời Lê
Trung Hưng (thế kỷ XVII) với nhiều bức chạm tinh vi trên gỗ, mà đề tài là những
cảnh sinh hoạt dân gian: người chăn dê, người thổi ống xì đồng... Thủy đình mang
nhiều yếu tố dịch học mà trên đó những mảng chạm nói lên những ước vọng của dân
chúng.
Đó là hai hình ảnh nói lên người quân tử lấy cái trí thức làm đầu, nếu không có
trí thì con người đi vào ngu tối mà sự vô minh, ngu tối thì đồng nghĩa đồng thời là
mầm mống của tội ác. Thông qua đó thấy rằng, người xưa dạy phải lấy cái trí tuệ làm
đầu, nhờ có trí tuệ mà đi vào thiện tâm.
Qua sân gạch đến Nghi môn khá cao mới được xây vào cuối thế kỷ XIX. Phía
trước có đôi rồng đá nét chạm hơi thô nhưng rất khỏe, bên dưới có dòng chữ khắc cho
biết niên đại tạo tác của rồng vào năm Ất Dậu niên hiệu Vĩnh Thịnh, tức năm 1705
dưới triều Vua Lê Dụ Tông. Phía sau có đôi sư tử đá cũng làm vào năm đó.
Tiếp đến là nhà Thiêu hương (đốt hương), cấu tạo giống Thủy đình nhưng nhỏ
hơn, lợp bằng ngói kích tấc khá lớn (20cm x 30cm).
Liền nhà Thiêu hương là hai nhà Tiền tế khá rộng. Nhà ngoài do Điền Quận
công Nguyễn Huy (1610-1675), người làng Phù Dực, cạnh xã Phù Đổng đứng ra xây
dựng. Nhà bên trong do Đặng Công Chất, người chính làng Phù Đổng, đỗ Trạng
nguyên năm 1661, đứng ra hưng công, đáng chú ý ở đây là 39 viên gạch với kích tấc
30 x 20 x 10 (cm), mỗi viên đều chạm khắc hình rồng. Những viên gạch này được lát
ở bậc thềm vào cung. Hai ngôi nhà ba gian phía đông do Đặng Thị Huệ, chúa Trịnh
Sâm (thế kỷ XVIII) cung tiến.
Trong hậu cung 12 gian có tượng Thánh Gióng cao 3m, hai bên có sáu tượng
quan văn, quan võ, hai phỗng quỳ và bốn viên hầu cận "Tứ trấn".
Kiến trúc đền không có gì đặc biệt, nhưng đáng chú ý là những đầu bẩy còn lưu
lại được những mảng chạm vào thời Hậu Lê.
Đền còn lưu được cả thảy 21 đạo sắc phong, đời Lê 12 đạo, đời Tây Sơn 3 đạo,
đời Nguyễn 6 đạo. Cũ nhất là sắc phong Đức Long năm thứ 5 (1634).
Trong Đền, còn nhiều hiện vật có giá trị: chiếc ngai thờ từ thời Lê Trung Hưng
(thế kỷ XVII) chạm trổ tinh vi; đôi chim mang nghệ thuật Trung Hoa do Đặng Thị
Huệ, cung tiến, bình hương, nghê đồng, hai thanh kiếm, câu đối do anh em thi hào
Nguyễn Du cung tiến năm 1818. Bên Đền có một bia đá rất đẹp, cũng là một hiện vật
hiếm thấy tại các ngôi đền khác ở nước ta.
Đền Hạ: đền nằm ngoài đê, ở phía đông đền Thượng, đền là nơi thờ mẹ Thánh
Gióng, cũng gọi là Thánh Mẫu. Trước kia, Thánh Mẫu được thờ chung với Thánh
Gióng ở đền Thượng. Đến năm Chính Hòa thứ 4 (1683), Thánh Mẫu mới thờ ở đền
riêng tại thôn Ngô Xá. Mười năm sau đền lại được thiên về gần chùa Giếng (chùa Tập
Phúc), tại chỗ hiện nay. Đền hiện còn lưu giữ được một số hiện vật có giá trị: đôi
phỗng đá, một bộ dài bạc, hai bình hương đá...
Miếu Ban: ở phía tây đền Thượng, trong xóm Ban, tên chữ là Dục Linh Từ.
Miếu thờ Thánh Mẫu. Tương truyền đây là nơi Gióng ra đời, do đó còn có tên là
"Trài Nòn". Miếu lợp ngói cổ hình mũi hài. Sau Miếu là giếng Bát Nhũ trì (ao tám
vú) giữa giếng nổi lên một gò đất con xinh xắn. Truyền rằng, Thánh Gióng ra đời trên
sập hiện đặt ở đảo này, sau đó được tắm trong chậu đá cũng đặt ở đây. Ngoài ra, còn
có một liềm đá mà người đá mà người ta đã xem là dao cắt rốn cho Thánh Gióng,
nhưng liềm hiện nay không còn nữa.
Cố viên: Theo truyền thuyết, cố viên (vườn xưa), cũng gọi là "vườn rau", là nơi
mẹ Gióng đến hái rau rồi ướm chân mình vào chân người Khổng Lồ, do đó mà mang
thai sinh ra Gióng. Ở đây có một nhà nhỏ gọi là "cây hương", bên cạnh là hòn đá lớn
hình thù đặc biệt với nhiều nét lồi lõm được xem là dấu chân của Người Khổng Lồ.
Còn một tấm bia mang dòng chữ "Đổng Viên Thánh Mẫu cố trạch" (Nhà xưa của
Thánh Mẫu trong vườn Đổng).
Giá Ngự: Ở đây có hai cột trụ và một bệ xây vào đầu thế kỷ XX. Vào ngày hội
đền, dân làng kéo ngựa thờ, gọi là ông giá, từ đến Thượng đến đây trông ra khu soi
bia cạnh Đền Hạ nơi điệu múa cờ được biểu diễn.
Mộ Trần Đô Thống: Mộ ở xóm Vận Hang, trước đền Thượng. Tục truyền Đô
Thống là một tướng của Thánh Gióng, người Phù Dực cầm đạo tiên phong trong đoàn
quân chống giặc Ân. Mộ được xây bằng gạch giữa một khu rộng ngoài bãi sông.
Hàng năm, từ mồng 6 đến mồng 9 tháng 4 âm lịch, dân địa phương lại tổ chức
hội Gióng, ngày lễ chính là ngày mồng 9. Trước ngày này, dân làng đã tổ chức nhiều
trò chơi: Vật, chọi gà, đánh cờ, hát, đặc biệt là hát ải lao - một tục rất cổ. Trong ngày
lễ lớn vui nhất là trò diễn trận, rước kiệu, múa cờ, chia phe diễn lại sự tích Thánh
Gióng đánh giặc Ân.
Nhân vật anh hùng Gióng đã trở thành biểu tượng của sức mạnh và lòng yêu
nước Việt Nam. Hội Gióng là một đỉnh cao của sinh hoạt văn hóa cổ truyền Việt
Nam. Vì thế, người Việt Nam xưa và nay vẫn nhắc nhau lời răn:
"Ai ơi mồng chín tháng tư,
Không đi hội Gióng cũng hư mất đời"
Không chỉ là Làng Phù Đổng. Trong khu vực Đền Hùng ở Vĩnh Phúc, có Đền
Thượng, tức "Cửu trùng tiền điện" được dành để thờ Thánh Gióng. Làng Vệ Linh ở
huyện Sóc Sơn, phía bắc thủ đô Hà Nội, nơi tương truyền Gióng đã trút giáp để cùng
ngựa về trời, cũng có đền thờ Gióng, được nhà nước quân chủ tặng danh hiệu lớn:
"Xung thiên Thần vương".
(Tạp chí Thăng Long Hà Nội ngàn năm - Số 13/2003)




Bài viết liên quan:

Đánh giá của Bạn về bài viết này?

Đăng nhận xét

Mới hơn Cũ hơn

đăng ký nhận tin mới