THẦN SÔNG TÔ LỊCH - SỰ TÍCH VÀ TRUYỀN THUYẾT

 

Thần Sông Tô Lịch

 
 Thành Đại La ngày xưa được xây dựng tên phần đất cửa làng Long Đỗ. Làng này nằm bên bờ sông nhỏ chảy ra sông Cái (Sông Hồng).
 
 Tương truyền, xưa kia trong làng có nhà họ Tô, tuy gia tư không giàu có lắm, nhưng mọi người ăn ở với nhau thật là hiếu nghĩa, hòa thuận.
 
 Đó là vì gia đình này từ nhiều đời này luôn luôn có ba thế hệ cùng ở chung với một nếp nhà, nhưng do chăm chỉ làm ăn lại biết trên kính dưới nhường, nên chẳng hề xảy ra chuyện gì to tiếng. Đối với dân làng, họ cũng đối xử khoan dung và làm nhiều việc nhân nghĩa, nên được mọi người kính nể.
 
 Sang đến đời Tô Lịch, chẳng những ba đời, mà cả ba anh em trai, tuy đều có gia đình riêng, nhưng vẫn cùng ăn cùng làm, vậy mà trong nhà luôn luôn êm ấm, không bao giờ có đều gì xâu. Còn đối với dân làng, những khi giáp hạt hoặc những năm mất mùa, họ sẵn sàng bỏ thóc gạo ra cứu trợ người nghèo hoặc cho dân làng vay không lấy lãi. Vì thế lại càng được mọi người mến phục.
 
 Thời ấy, Giao Châu đang bị nhà Tấn cai trị (264 - 420). Nhà Tấn có lệ đề cử nhưng người hiền đức, hiếu nghĩa và các chức vị ở địa phương nên người anh cả Tô Lịch được chức vụ Long Đỗ. Ông điều hành và xử đoán các việc có lý có tình, lại biết thương yêu quý trọng mọi người nên hương ấp ấy yên vui, mọi người chăm lo sản xuất và không xảy ra những chuyện như tranh giành, đánh chửi nhau hoặc cờ bạc, trai gái trộm cướp.
 
 Tiếng lành đồn xa, vì thế khi ông còn sống, dân chúng trong vùng lân cận, khi gọi tên trong làng Long Đỗ, thường lại hay nói: "Đấy là làng ông Tô Lịch".
 
 Khi Tô Lịch già yếu rồi mắt, dân chúng trong vùng tiếc thương, đã lập đền thờ ông để tưởng nhớ, và cái tên làng Tô Lịch mãi mãi được lưu truyền.
 
 Khoảng 400 năm sau, lúc ấy vào thời Tùy đường cai trị, quân Lâm Ấp, Nam Chiếu ở phía nam thường hay ra Giao Châu cướp phá. Trương Bá Nghi (đời Đường) mới đắp lại La Thành cách sông Tô Lịch khoảng 200 thước, rồi về nhiệm sở từ Long Biên (khoảng thị xã Bắc Ninh) về đây (767). Cao Chính Bình thay Trương Bá Nghi. Khi Phùng Hưng khởi nghĩa đánh Cao Chính Bình rồi chiếm phủ đô hộ, cũng ở trong La Thành (791).
 
 Triệu Xương rồi Trương Chu sang cai trị sau đó, đều củng cố La Thành thêm. Đến đời Lý Nguyên Gia lại đặt đến trên nền nhà cũ của ông họ Tô thuở trước.
 
 Lý Nguyên Gia là viên quan cai trị khôn ngoan, lại am tường thiên văn địa lý và thông hiểu lý, số.
 
 Trước lễ động thổ, y đi dò la nhìn ngắm thế đất và hỏi han các bậc phụ lão trong vùng, nên đã hiểu rất rõ lai lịch. Khi đặt nhiệm sở trên nền nhà của họ Tô và Lý đã có tính toán kỹ càng. Đó là vùng đất bằng phẳng, cao ráo hơn so với chung quanh, lại được cái thế là "rốn của con rồng" (Long Đỗ).
 
 Lý Nguyên Gia cho nấu rượu, mổ thịt gia súc làm cổ thật hậu để khao quan sĩ và mời tất cả các bậc phụ lão trong vùng tới dự. Lý tỏ ý với mọi người rằng sẽ làm sớ tâu lênh vua đường xin lập Tô Lịch làm thần thành hoàng. Rồi cũng mọi người ăn uống, chuyện trò vui vẻ.
 
  Lý Nguyên Gia cho rằng như thế mọi việc suôn sẻ, không bị dân sở tại có phản ứng gì. Nhưng đêm ấy, khi nằm bên cửa sổ thiu thiu ngủ, Lý bỗng thấy một trận gió ào tới, rồi bụi cuốn cát bay mù mịt. Tan cơn gió, trước mặt Lý hiện ra một cụ già phương trượng, râu tóc bạc trắng, vận khảm phục màu tía, cưỡi hươu trắng đến trước mặt bảo:
 
 - Tôi được bẩm báo khi ban ngày Ngài có nói với mọi người rằng sẽ lập sớ tâu lên nhà vua cho tôi được làm Thần Thành Hoàng của đất này. Xin cám ơn Ngài, Nhưng đó cũng chỉ là cái danh vô thừa, vì có hay không đối với tôi cũng chẳng có can hệ gì. Sự thực thì từ mấy trăm năm trước, khi ấy Ngài con chưa có mặt ở trên đời này, tôi đã được dân làng tưởng nhớ lập đền thờ. Rồi Ngọc Hoàng thượng đế cũng phong tôi làm thần cai quản cả vùng đất này, kể từ ngày ấy trở đi. Bây giờ Ngài lập phủ lệ trên đất của tôi, sự ấy là tùy Ngài, tôi không chấp làm gì, vì ai sống ở trên đời thì cũng cần có một nơi để ở. Chỉ mong Ngài làm quan đầu xứ hãy bão lũ thuộc hạ và quân lính chớ có cướp bóc, sách nhiều chúng dân, và bản thân, khi xét xử việc gì, cũng phải thật công minh. Có như thế thì mới xứng đáng với danh phận và trách nhiệm của mình. Tiếng thơm của tôi để lại, hẳn Ngài hỏi han các bậc phụ lão trong vùng, nên biết rõ rồi. Mong Ngài cùng hãy làm như thế?
 
 Tuy nói như vậy nhưng nết mặt cụ già vẫn không hề biến sắc còn giọng vẫn ôn tồn và không hề tức giận. Lý Nguyên Gia mở mắt, há mệng ra mà lắng nghe, như nghe lời thầy dạy bảo. Nói xong, cụ già chợt biến mất. Lý chỉ còn biết cách cung kính vái theo.
 
 Khi tỉnh dậy, Lý trong đèn ngồi suy nghỉ trước sau. Lý quyết định chỉ xây phủ đệ vừa phải, và đắp thành bên ngoài cũng nhỏ thôi, chứ không làm to tát. Một mặt Lý thấy binh lực tiền bạc ít, sợ "lực bất tòng tâm" mặt khác Lý cũng sợ người và thần ở đất này không dung. Lý không có biến động, mà chỉ mong được yên thân, rồi còn có ngày trở về phương Bắc vẹn toàn.
 
 Đến thời Cao Biền sang dẹp quân Nam Chiếu cướp phá và ở lại làm tiết độ sứ (866), ý cho xây dựng phủ to tát, nguy nga hơn nhiều. Lại xây đắp la thành cũng bề thế, vững chắc hơn rất nhiều so với thời Lý Nguyên Gia. Biền cậy mình có vũ công lớn, lại bản thân là tay tướng số lão luyện, có nhiều thuật phép và mưu mẹo thâm hiểm, nên y tưởng rằng sẽ bất chấp và khuất phục được tất cả. Nhưng y đã lầm to!
 
 Một buổi đang giữa tháng sáu, nước sông cái tràn vào sông nhỏ dâng cao, Biền ngồi thuyền nhẹ thuận theo dòng nước mà vào trong thành. Đi khoảng một dặm, y thấy một cụ già phương trượng đang vừa bơi vừa tăm ở dòng sông, dáng điệu có vẻ ung dung phấn trấn lắm. Biền bèn dừng thuyền lại hỏi:
 
 - Ta chỉ mới thử nhà ngươi một chút đó thôi.
 
 Sau buổi đó Biền về phủ đệ, đọc hết giấy tờ cũ. Rồi đi hỏi han các cụ phụ lão trong vùng thêm. Bề ngoài thơn thớt nói cười, nhưng trong bụng thì y căm giận, muốn trừ diệt bằng được thần Tô Lịch.
 
 Một buổi sớm, Biền ra đứng ở bờ sông Cái, phía đông thành Đại La, để ngắm nghìn các thế đất và tìm huyệt định yểm. Bỗng nhiên, một trận bão nổi lên, lá rụng các bay mù mịt và nước sông cũng dâng sóng lên cuồn cuộn. Đứng trên mặt sóng là thần Tô Lịch mà y đã từng gặp mặt, nhưng bây giờ trang phục thật uy nghi, tề chỉnh, lại cười trên một con hươu trắng.
 
 Biền giương mắt ra nhìn, chưa kịp có phản ứng gì. Bỗng nhiên, cụ già cưỡi hươu bay vút lên, rồi đến trên đầu Biền dâng lên hạ xuống ba lần. Đến lần thứ ba, Biền nghe thấy tiếng nói vọng xuống:
 
 - Nhà ngươi đừng hòng che được mắt ta, giả vờ ra đây ngắm cảnh. Ta thừa biết bụng dạ nhà ngươi nghĩ thế nào rồi.
 
 Biền kinh hãi, rồi bảo mấy tên lính hầu cùng nhau lui bước về phủ. Tuy vậy y vẫn cò nuôi ý định trả thù.
 
 Một tháng sau, khi đã chuẩn bị xong xuôi, Biền xây dựng đàn tràng để niệm chú, bắt quyết. Bùa yểm của Biền là kim đồng thiết phủ. Đêm hôm ấy, Biền xõa tóc, cầm kiếm đứng giữa đàn tràng, miệng lẩm bẩm còn tay thì khua khoắng lia lịa. Bỗng nhiên, sấm chớp nổi lên đùng đùng, nước mưa đổ xuống như trút. Trong cơn mưa gió, có tiếng thiên binh thần tướng hò reo vang lừng. Rồi trong khoảng khắc, trái với ý đồ của Cao Biền, kim đồng thiết phủ bật ra khỏi đất rồi biến ngay thành tro bụi, bay đi mù mịt ...
 
 Biền khiếp đảm, ngã vật ra đất, hai mắt trợn ngược, bọt mép sùi ra, nom thật gớm guốc, thảm hại. Quân sĩ phải vực y vào trong trướng, đánh gió, xoa bóp và cho uống thuốc, một hồi lâu sau là Biền mới tỉnh. Y than thầm:
 
 - Xứ sở này nhân kiệt địa linh không thể nào chế ngự được. Ta ở lâu ắt sẽ chuốc lấy tai họa.
 
 Từ đấy Biền vơ vét tích cóp thạt hiều vàng bạc, châu báo, lụa là, cùng nhiều thứ quý giá khác. Y cho người thân tín mang về đút lót quan thái quỳ nha đường. Mấy tháng sau, Biền nhận được chiếu chỉ về kinh thăng chức. Tuy là mừng đấy, nhưng khi ra về người ngượm tay chân y cứ rung lên như rẽ.Về đến nước, y vẫn còn mắc chứng run. Mấy tháng sau thì y mới chết.
 
 Đây lại nói về thần Tô Lịch do có nhiều công đức với dân chúng nên Ngài được lập là Thần hoàng, như khi nói với Lý Nguyên Gia, Ngài đã bảo như vậy, Ngài lại có hiều công đức với cả đất nước, vì đây là đất của quốc đô Thăng Long sau này, như đã mấy lần Ngài cho Lý Nguyên Gia, rồi cao Biền, biết thế nào là đất có chủ.
 
 Dân chúng thờ phụng Ngài ở nơi lập đền thờ thật là tôn nghiêm, thành kính. Các triều đại trước đây cũng đều có sắc thượng phong, coi Ngài như vị Thành hoàng thứ hai của quốc đô, sau thần chính khí Long Đỗ vậy. Hàng năm, nhà vua đều cử quan đại thần đến đây để làm lễ quốc tế.
 
 Đến khi người Pháp cai trị, chắc là họ có mở sách cũ, học được thói đối xử của Cao Biền, nên đã san bằng đền thờ thần Tô Lịch, để xây dựng lên ở đó, là Nhà Thờ lớn hiện nay vậy.
Bài viết liên quan:

Đánh giá của Bạn về bài viết này?

Đăng nhận xét

Mới hơn Cũ hơn

đăng ký nhận tin mới