Ngự sử đại phu Trương Đỗ

 

Ngự sử đại phu Trương Đỗ

Thiếu niên xuất chúng tướng quân phục
Tráng tuế tằng thừa Ngự sử thông
Tam gián bất tòng thân tự thoái
Gia đình thanh bạch túc môn phong
Tạm dịch:
Tuổi trẻ khác người, tướng phải phục
Lớn lên làm tới Ngự sử quan
Ba lần can, vua không nghe, từ chức
Trong sạch nhà nghèo tạo nếp quen
Đó là bốn câu thơ chữ Hán tương truyền của người đương thời ca ngợi quan
Ngự sử đài đại phu - Trung Đô tổng quản Trương Đỗ còn lưu trong dân gian quê ông.
Trương Đỗ không oc năm sinh, năm mất, chie biết ông sống vào thế kỷ XIV
thời nhà Trần, lớp kê stục của danh thần Chu Văn An (1292 - 1371), làm quan đời vua
Duệ Tông (1373 - 1377) và Phế Đế (1377 - 1388). Theo đại Việt Sử ký toàn thư,
Trương Đỗ quê gốc ở làng Phù đái, huyện Đồng Lại, xứ Đông (nay là thôn Phù Tải,
xã Thanh Giang, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương), ra ngụ ở phường Cơ Xá và
Nghi Tàm, thành Thăng Long đã nhiều năm.
Tính cách nhân vật này được Toàn thư thuật lại như sau: "Đỗ là người thanh
liêm không thích giao du nhiều, tính tình phóng khoáng và có chí lớn. Lúc còn nhỏ,

có lần đi chơi Hồ Tây xem tướng quân tập bắn, nói đùa rằng: -Nghề ấy có khó gì! Vị
tướng ngạc nhiên: - Vậy mi có bắn trúng được không? Đỗ đáp: - Cứ thử xem! Bèn
bắn ba phát trúng cả ba.
Vị tướng kinh ngạc, muốn nhận làm con nuôi song Đỗ không theo. Sau thi đỗ
tiến sĩ, làm quan có tiếng thanh liêm.
Bình sinh, ông rất khâm phục danh nho họ Chu, đời vua Trần Dụ Tông (1341 -
1369) đã dũng cảm dâng "Thất trảm sớ" xin chém bảy tên gian thần.
Vào năm Bính thìn (1376) quân Chiêm thành quấy rối biên giới phía nam. Vua
Trần sai quan Hành khiển Đỗ Tử Bình đem quân vào giữ châu Hóa. Vua Bình đem
quân vào giữ Châu Hóa. Vua Chiêm là Chế Bồng Nga đem 15 mâm vàng dâng triều
đình nhà Trần tạ lỗi. Đỗ Tử Bình biển thủ đồ lễ, tâu sai với triều đình là Chế Bồng
Nga ngạo mạn hỗ xược, phải trừng trị, cho nên vua Trần giận lắm mới quyết ý thân
chinh.
Tháng 6 năm ấy, Duệ Tông xuống chiếu xuất quân. Triều Trần lúc này sau kỳ
tích ba lần thắng Nguyên - Mông, đang thoái trào. Gian thần lộng hành, loạn lạc bất
yên, trăm họ lầm than, gây chiến tranh lúc này là không nên. Các quan ngự sử trung
tán Lê Tích, đại tướng quân Dỗ Lễ đã can ngăn không được. Ngự sử đại phu Trương
Đỗ dâng "bãi chiến sớ" ba lần, phân tích rõ:
"Chiêm thành trái mệnh, tội ấy đáng chết. Song địch ở cõi tây xã cách, núi sông
hiểm trở. Nay bẹe hạ lại mới lên ngôi, chính hóa chưa nhuần thấm tới phương xa, nên
sửa văn đức cho họ tự phải thần phục. Nếu họ không theo, lúc ấy cử tướng đi đánh
cũng chưa muộn"
Can vua ba lần, vua không nghe, Trương Đỗ bèn treo mũ, ấn từ quan bỏ về.
Tháng 10, Duệ Tông duyệt quân ở Bạch Hạc; tháng chạp từ Thăng Long dẫn 12
vạn quân lên đường.
Tháng Giêng năm Đinh Tỵ (1377), quân Trần tiến vào cửa Thị Nại (Quy Nhơn)
đánh đồn Thạch Kiểu, rồi tấn công kinh đô Đồ Bàn. Chế Bồng Nga rút quân ra ngoài
bao vây, nhưng lại cho lính trá hàng, khai vua Chiêm đã bỏ thành chạy trốn, phải tiến
vào chiếm thành ngay. Duệ Tông tưởng thật thúc quân hối hả vào Đồ Bàn, đại tướng
Lễ ngăn cũng không được. Quân Trần sa vào bẫy phục binh, bị đánh tơi bời từ bốn
phía, thua to, Duệ Tông chết trong đám loạn quân. Đỗ Tử Bình và Hồ Quý Ly ở hậu
quân không dám đem binh ứng cứu.
Bình luận sự kiện ba lần dâng "bãi chiến sớ" của Trương Đỗ, về sau sử gia Ngỗ
Sĩ Liên viết:
"Trương Đỗ nói không giấu lời, thế là xứng chức: nói đến ba lần, thế là cố can;
mà vua không nghe, thế là tâm trí vua đã mê rồi. Người có trách nhiệm phải nói,
không được nghe thì đi, thế là sự tiến lui của Đỗ hợp lẽ phải vậy. Tuy lời nói thẳng
thường trái tai vua, mà lợi cho thân vua, nên lấy việc này làm gương.
Duệ Tông mất trong chiến tranh vì không nghe lời can của các trung thần mà
nổi bật là Trương Đỗ.
Sau đó, triều đình Phế Đế mời ông trở lại làm quan thăng đến chức Đình úy tự
khanh, Trung Đô phủ tổng quản cho đến khi về hưu và mất.

Như vậy, Trương Đỗ không chỉ là quan ngự sử đại phu mà còn làm Tổng quản
phủ Trung Đô gồm hai huyện Vĩnh Xương và Quảng Đức - tức kinh thành Thăng
Long - trong những năm cuối đời.
Mảnh đất nghìn năm văn hiến đã tự hào có một danh thần khí phách Chu Văn
An, lại có thêm một tổng quản Thăng Long Trương Đỗ thanh liêm, cương trực, dũng
cảm đáng được kính trọng.
Dân Quang
(Tạp chí Thăng Long Hà Nội ngàn năm - Số 4/2001)

Bài viết liên quan:

Đánh giá của Bạn về bài viết này?

Đăng nhận xét

Mới hơn Cũ hơn

đăng ký nhận tin mới