Nguyễn Bỉnh Khiêm - những giá trị vững bền với nhân dân, đất nước, thời đại

 


Nguyễn Bỉnh Khiêm - những giá trị vững bền với nhân dân, đất nước, thời đại

Năm 1985, dịp kỷ niệm trọng thể lần thứ 400 ngày giỗ của Nguyễn Bỉnh
Khiêm, tại Hải Phòng đã có một Hội nghị khoa học toàn quốc về ông.
15 năm sau đổi mới, cùng với đông đảo nhân dân cả nước về quê Trạng làm lễ
dâng hương, dự lễ hội, các nhà quản lý, nghiên cứu, hoạt động văn hóa, xã hội lại tổ
chức hội thảo khoa học về Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Cả hai lần tụ hội với gần 100 bản tham luận của các nhà nghiên cứu khoa học xã
hội, nhân văn đã đề cập đến nhiều phương diện của tài năng và bản lĩnh Tuyết Giang
Phu Tử. Trên cơ sở phana tích thời đại Nguyễn Bỉnh Khiêm, mối quan hệ giữa ông
với bối cảnh văn hóa Việt nam thế kỷ XVI, hành trang, nhân cách, thái độ ứng xử của
ông với các tập đoàn mạc, Lê, Trịnh, Nguyễn, lý giải những quan điểm triết học mà
Nguyễn Bỉnh Khiêm gửi gắm trong văn chương... cho đến như lời sấm Trạng Trình,
các nhà khoa học đã thống nhất, làm sáng rõ vai trò và những đógn góp của với thời
đại, khẳng định tài năng kiệt xuất của ông trong giáo dục, triết học, văn học...
Cũng ngay trong các cuộc hội thảo này, các nhà khoa học cũng đã khẳng định:
"Trạng Trình còn những điều gì đó vẫn là bí ẩn", "những vấn đề đặt ra trong nghiên
cứu Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn luôn luôn có ý nghĩa thời sự, là những vấn đề còn để
ngỏ", "Trong việc tiếp tục khám phá các giá trị văn hóa tốt đẹp của truyền thống,
trong đó có gương mặt nổi bật của Nguyễn Bỉnh Khiêm, con người đang sống đến tận
hôm nay, trong mọi tâm thứ"
(1)
Không phải chỉ từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, các thế hệ cháu con của
Nguyễn Bỉnh Khiêm mới trở về, mới khám phá về ông. Trong hơn 4 thế kỷ qua,
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1492 - 1585) đã thuộc vào lớp người đặc biệt, dạng giá trị đặc
biệt trong lịch sử văn hóa Việt Nam, trong tâm thức của mọi tầng lớp nhân dân: nông
dân, học trò, doanh nhân, trí thức, quan lại. Nhân cách, trí tuệ Nguyễn Bỉnh Khiêm đã
trở thfnh giá trị văn hóa không phải của một thời, của riêng một tầng lớp nào, mà của
muôn đời nhân dân, đất nước.
Không nên quên trong lịch sử Việt Nam:
a) Việc đỗ cao như ông không ít. Lượng tiến sĩ của nho học Việt Nam không
phải hàng 2 mà 3 con số. Danh hiệu Trạng nguyên cũng không phải dành riêng cho
một mình ông, mà có trên 40.
b) Làm quan bên cạnh Vua mà ghét thói gian, nịnh, lộng quyền của đám gian
thần, dâng sớ "trảm" đòi tiêu trừ bọn chúng, thì trước Nguyễn Bỉnh Khiêm đã vằng
vặc tấm gương dũng cảm, tiết tháo dám viết sớ đòi giết 7 đứa gian thần ("Thất trảm
sớ") chấn động quỷ thần của Chu Văn An.
c) Cáo quan về ở ẩn, dồn tâm, trút trí vào việc đào luyện học trò cũng đâu phải
từ Nguyễn Bỉnh Khiêm mở ra. Trước và sau ông "tiến vi quan, thoái (hay đạt) vì sư"
(Tiến thì là quan, lui hay đạt thì làm thầy giáo) đã trở thành cách, thành mô hình hành
sự của các thế hệ sĩ phu Việt Nam.
d) ở "mà" vẫn tiếp "hiện" trong vai trò "tư vấn" cho chính quyền, thậm chí cho
cả các thế lực đang chống đối nhau cũng không phải là chuyện hiếm trước và sau thời
ông.
Nhắc lại những chuyện trên để thấy rằng những danh hiệu, những hành động
như đã nêu trên đâu phải là "chuyện xưa nay hiếm" của lịch sử - văn hóa Việt Nam.
Thậm chí, với tư cách là trí thức, trong mối quan hệ giữa những cặp, những tình
huống đối lập: "trọc" và "thanh", "danh-lợi", "hành-tfng", "trung-nịnh", "chấp kinhtòng quyền" vốn thường xuyên được đặt ra trong cách hành động, lựa chọn của xã hội
xưa, thì những điều trên lại gắn bó, lại như khôngtránh khỏi với phận quan lại trí thức
phong kiến Việt Nam. Và vì thế, cũng từ rất lâu, những (a), (b), (c), (d) đó thành
những biểu trưng hay như là "chuẩn", dẫu không tuyên bố, nhưng lại được coi là

thước đo tài trí, nhân cách, tấm lòng của các bậc sĩ-hoạn trước thời cuộc, trước nhân
dân, đất nước. Những tiêu chuẩn vừa cân đo được, vừa chỉ là ước lệ xã hội trên đây
đâu phải là "chuyện xưa nay hiếm" của lịch sử - văn hóa Việt Nam...
Không ít những trí thức phong kiến Việt Nam đã được "đo" đã có trong "lý lịch"
của mình ít nhất một tiêu chuẩn trên. Và, cũng chỉ cần một trong những chuẩn đó, họ
cũng đã có giá (thậm chí trở thành huyền thoại) trong người đương thời, lưu danh với
hậu thế tùy từng phạm vi thời gian và không gian: từ gia tộc, xóm làng đến quốc gia,
dân tộc. Với Tuyết Giang Phu Tử Nguyễn Bỉnh Khiêm thì không chỉ là một, mà cả và
đủ tất cả những tiêu chuẩn trên đều xảy đến với cuộc đời ông. Nhưng, không phải một
danh hiệu đó làm nên giá trị Nguyễn Bỉnh Khiêm. Khác với các loại người "giá áo túi
cơm" trằn trọc, lao tâm khổ tứ vì danh, vì lợi, vì cái danh tiến sĩ, bảng nhãn, thám
hoa... vốn không ít trong lịch sử thi cử nho học Việt nam, ông thuộc lớp người không
phải sống vì danh hiệu, trở thành gí trị vì những danh hiệu, áo mão. Cũng như Chu
Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm chẳng đã cởi bỏ chiếc áo đại triều để trở
về với Bạch Vân đó sao. Phải chăng chính điều đó khiến cho ông, cho những người
như ông trở thành giá trị không chỉ với đương thời, của riêng dòng họ, riêng một
vùng?
Điều căn bản gì đã tạo nên điều đó?
Vì ông là bách-khoa-thư của thế kỷ XVI, của những thê skỷ tiếp sau? tri thức
của ông có thể giải đáp nhiều câu hỏi của nhân gian, là cẩm nang trước: nhân vấn nạn
cuộc đời.
Có không ít những vấn đề của cuộc đời Nguyễn Bỉnh Khiêm muốn hiểu, muốn
biét, muốn giải đáp cho chính mình mà ông chưa hay, mà không thể giải đáp được.
Đọc thơ tâm sự của ông thấy luôn canh cánh
(1) Xem: Hội đồng lịch sử Hải Phòng, Viện Văn học Việt Nam: Trạng Trình
Nguyễn Bỉnh Khiêm (kỷ yếu hội nghị khoa học). Tái bản lần thứ nhất - Hải Phòng
2001)
trước những hiện thực, khi thì hiện lên tên thơ: "thương loạn", "ghét chuột"...
khi thành những cật vấn chính mình, hoạc tung vào trời xanh, mây trắng:
Tá vấn ngô dân hà dĩ lạc
(ướm hỏi dân ta coi cái gì là niềm vui?)
Gươm trời nỡ để tay phàm tuốt
Búa nguyệt chi cho đứa độc mài?
Nhà dột bởi đâu?
...
Trước ông, từ Chu Văn An đến Nguyễn Trãi, sau ông đến Nguyễn Du, Nguyễn
Khuyến thử hỏi có ai trả lời được những đòi hỏi thường xuyên, nhức nhối của "thái
bình thiên tử, thái bình dân", của thói đời ấm lạnh?
Nhưng đó không phải là vấn đề của riêng một thế kỷ nào, quốc gia nào trong
lịch sử.
Nhân loại đã từng viện dẫn đủ mọi lý thuyết, mô hình, cách thức: từ tín ngưỡng,
tôn giáo đến khoa học thực chứng để từng bước khắc phục, sửa sai, uốn nắn, nhưng
hẳn không một nhà lạc quan, lãng mạn chủ nghĩa nào dám khẳng định một sớm, một

chiều khắc phục được những vấn nạn như trở thành thuộc tính ấy trên đây. ở Việt
nam, từ buổi cuối Trần đến trước thế kỷ XX, đứng trước vấn nạn này, trong tay những
nhà cầm quyền, quản lý đất nước, trước các bậc trí thức vẫn không có gì, chưa lấy gì
thay được Nho giáo mặc dầu từ đầu thế kỷ XVI trở đi đã thấy mô hình quân chủ Nho
giáo là bế tắc, và phải tân trang, phải :ngụy Nho". Điều đó lý giải vì sao từ Nguyễn
Bỉnh Khiểm, các thức giả Nho học Việt Nam càng đối chiếu kinh điển nho giáo để dọi
vào, hành sự trong đời thường, thói thường càng trăn trở, càng lúng túng nhiều hơn.
Bất chấp tất cả những đau khổ, nhữc nhối, thậm chí dẫn đến cả bi kịch cho cuộc
đời mình, từ Chu Văn An "tấc lòng chưa lạnh như tro đất" (thốn tâm thù vị như khôi
thổ), đến Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm... "tấm lòng lo trước thiên hạ đến già
chưa thôi" (lão lai vị ngải tiên ưu chí). Dẫu thời đại, hoàn cảnh lịch sử có cách xa
nhau, nhưng với các ông đều có chung một nỗi niềm, chung dòng máu đỏ cho những
trái tim chân thành và nhiệt tâm yêu nước, thương dân, gắn bó cuộc đời. Chính điều
đó là căn bản, đầu tiên, bền vững của nhân cách trí thức của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Nhưng tầm vóc trí thức, giá trị của Nguyễn Bỉnh Khiêm nói riêng vớitư cách là
một trí thức không chỉ đo bằng những điều đó.
Đầu thế kỷ XV, trước còn, mất của vận mệnh đất nước, văn hóa dân tộc, tríc
thức, trí tuệ Nguyễn Trãi "ngẫm nay suy trước, xét cho cùng mọi lẽ hưng vong" xây
thành đường lối giải phóng dân tộc đúng đắn của khởi nghĩa Lam Sơn, đưa dân tộc
Việt Nam đi đến khúc hkải hoàn Đại cáo Bình Ngô.
Nửa sau thế kỷ XVI...
Với một đất nước đang trong cảnh nội chiến Trịnh - Mạc, và đang tích chứa một
cuộc chiến nữa, một cuộc chiến không tránh khỏi, sẽ bùng nổ bất kỳ lúc nào qua mâu
thuẫn mất còn của hai thế lực Trịnh - Nguyễn, thì giải pháp Nguyễn Bỉnh Khiêm
trong việc tham vấn cho các thế lực chính trị lúc đó, trên thực tế đã vừa góp phần đẩy
lùi cuộc chiến đến hàng thế kỷ (hay là bớt đi cho thế kỷ XVI một cuộc chiến) vừa chỉ
ra, thức tỉnh một tiềm năng kinh tế, văn hóa của vùng phía Bắc, đặc biệt là phía Nam.
Giải pháp Nguyễn Bỉnh Khiêm trước hiện tình đất nước nửa cuối thê skỷ XVI
hẳn không thể coi là giải pháp tình thế, là thái độ vô trách nhiệm của bậc trí thức trước
thời cuộc, trước đất nước. Ngược lại, trước những áp lực thực tiễn, gay cấn, cam go
không phải chỉ từ một phía, trước hoàn cảnh đất nước lúc đó, phương án của Nguyễn
Bỉnh Khiêm là phương án của Nguyễn Bỉnh Khiêm là phương án tối ưu, phương án
hạn chế đến mức thấp nhất, tránh đến mức thấp nhất đau khổ cho dân, cho nước.
Giải pháp đó chỉ có thể có được ở trí - tâm lực Nguyễn Bỉnh Khiêm, của những
người như ông. Đó là giải pháp của trí tuệ minh mẫn, là thực học (chứ không phải học
giả), gắn liền tri thức với thực tiễn của đất nước, được nâng cao, được thôi thúc bởi
lòng yêu nước, thương dân, bởi ý thức trách nhiệm của mình trước vận mệnh đất
nước. Đó cũng là con đường, là Đạo của những trí thức Việt Nam chân chính:
"Kính nhớ tiên sinh
Đông Hải hun đúc tinh thần
Nam Sơn đắp xây đức độ
...
Đạo tiên sinh muôn thuở vẫn còn..."

Đó là những câu đầu và kết trong văn tế Nguyễn Bỉnh Khiêm do các trí thức,
học trò của ông là Đinh Thì Trung soạn, Trương Thời Cử đọc trước mộ ngày đưa ông
về nơi an nghỉ cuối cùng (mùa đông năm 1585)
Đã hơn 415 năm qua đi, từng đấy thời gian hậu thế không ngừng tìm hiểu và
nhận từ cuộc đời, nhân cách, trí tuệ của Nguyễn Bỉnh Khiêm những giá trị tiếp truyền
cho thời đại, đất nước, nhân dân mình. Vượt qua những khuôn sáo, quy cách thông
thường của một bài truy điệu, thể hiện tình cảm của thế hệ học trò - lớp tri thức đương
thời do Nguyễn Bỉnh Khiêm trực tiếp đào tạo với ông... mà như nói dùm những tình
cảm, nhận thức về ông, nhận từ ông của muôn thế hệ.
TSKH. Nguyễn Hải Kế
Hà Nội, tháng 1 năm 2002
(Tạp chí Thăng Long Hà Nội ngàn năm - Số 5/2002)


Bài viết liên quan:

Đánh giá của Bạn về bài viết này?

Đăng nhận xét

Mới hơn Cũ hơn

đăng ký nhận tin mới